LỄ HIỂN LINH, NĂM C
ƠN CỨU ĐỘ CHO MUÔN DÂN
(Is 60, 1-6; Ep 3,
2-3a. 5-6; Mt 2, 1-12)
Trong Tin Mừng, chúng ta
thấy có nhiều lần Đức Giêsu nói về mạc khải. Tức là Thiên Chúa dùng nhiều thể
nhiều cách để tỏ lộ cho con người biết về chính Ngài.
Nói cách khác, Thiên
Chúa không tự mạc khải mình ra cho nhân loại, thì con người có cố gắng thế nào
cũng không thể biết gì về Ngài được!
Hôm nay, Giáo Hội long
trọng mừng lễ Hiển Linh, lễ này, trước kia gọi là lễ Ba Vua.
Lễ Hiển Linh mang một ý
nghĩa rất đặc biệt, đó là: Đức Giêsu, Con Thiên Chúa đã nhập thể làm người, và
tỏ mình ra cho nhân loại qua ba nhà Đạo Sĩ dưới một “ngôi sao lạ”.
Với người Á Đông, theo
quan niệm từ ngàn xưa, mỗi khi xuất hiện một ngôi sao lạ trên bầu trời, thì dưới
trần, một nhân vật sẽ được chiếu mạng. Đây cũng là lý do khởi điểm của môn
chiêm tinh học thời bấy giờ.
Ba nhà thông thái mà Tin
Mừng hôm nay nhắc tới, các ngài là những nhà chiêm tinh và thiên văn học, vì thế,
công việc chính yếu của các ngài là nghiên cứu về những dấu lạ trên bầu trời bằng
kiến thức khoa học và kinh nghiệm.
Khi thấy điềm lạ xuất hiện
trên không trung qua vì sao lạ, với khả năng chuyên môn và ơn trên soi sáng,
các Đạo Sĩ biết rõ ngôi sao lạ ấy là dấu hiệu loan báo về Đấng Cứu Thế đã giáng
trần, vì thế, Đấng mà muôn dân mong đợi cũng là Đấng mà các Đạo Sĩ đang khao
khát đợi trông, nên các ngài đã lên đường để đi tìm.
Khi đến
Khi hỏi vua Hêrôđê như vậy,
các ngài đã chứng minh sự mạc khải của Thiên Chúa cho mình và thể hiện niềm xác
tín mạnh mẽ vào Đấng Cứu Thế, nay đã đến và ở giữa nhân loại, quả đúng với lời
tiên báo: “Một vì sao hiện ra từ
Giacóp, một vương trượng trỗi dậy từ Israel” (Ds 24,17).
Chính sự mong mỏi, khao
khát và niềm tin của các Đạo Sĩ đặt nơi Đức Giêsu là nguồn ơn cứu độ, thế nên,
dù đường xa dặm thẳm, dù mệt nhọc khó khăn, phải băng rừng vượt biển, trèo đèo
lội suối, dãi nắng dầm mưa, lặn lội đêm ngày, nhưng các ngài đã không quản ngại
để cùng nhau đi tìm cho thấy “Đấng Mêsia
xuất thân từ dòng dõi vua Đavít” để phủ phục tôn thờ và dâng tặng những kỷ
vật quý giá gồm vàng, nhũ hương và mộc dược.
Qua việc Thiên Chúa tỏ
mình ra cho các Đạo Sĩ hôm nay, chúng ta nhận thấy: lễ Hiển Linh mở ra cho dân
ngoại một chân trời mới với biết bao hy vọng! Điều mà dân Dothái từ xưa đến nay
luôn nghĩ chỉ có mình mới được cứu độ, thì với sự tỏ mình ra của Đức Giêsu cho
các nhà chiêm tinh chứng minh cho nhân loại thấy ơn cứu độ không thể bị đóng
khung cho một quốc gia, một dân tộc, hay một nhóm người nào, mà là cho hết mọi
người, mọi nơi và mọi thời, để “... tất cả
mọi người đều được chia sẻ cùng một quyền thừa kế, họ trở nên một phần của cùng
một thân thể”.
Mừng lễ Hiển Linh hôm
nay, sứ điệp Lời Chúa gợi mở cho chúng ta thấy:
Nếu các đạo sĩ Đông
Phương đã nhờ ngôi sao lạ dẫn đường để đến Belem và gặp được Hài Nhi Giêsu, thì
mỗi người chúng ta khi đã lãnh nhận ánh sáng đến từ Thiên Chúa, qua Bí tích Rửa
Tội, chúng ta cũng phải trở nên ánh sáng soi đường cho người khác đến với
Chúa như lời dạy của Đức Giêsu:
“Chính anh em là ánh sáng cho trần gian” (Mt 5,14); hay như lời nhắc nhở của
thánh Phaolô: “Anh em hãy chiếu sáng như
những vì sao trên vòm trời” (Pl 2,15).
Chúa không bao giờ chấp
nhận chúng ta ngồi ù lỳ trong bóng tối và nguyền rủa bóng đêm! Không! Bởi vì: “Một thành xây trên núi không tài nào che giấu
được. Cũng chẳng có ai thắp đèn lên rồi lấy thùng úp lại, nhưng đặt trên đế, và
nó soi sáng cho mọi người trong nhà. Cũng vậy, ánh sáng của anh em phải chiếu
giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn
vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời” (Mt 5,1516). Ánh sáng mà Đức Giêsu
mời gọi chúng ta chiếu tỏa chính là đời sống bác ái, yêu thương và liên đới; sống
công bình và làm chứng cho sự thật...
Ngày hôm nay, trong đời
sống đạo, nhiều khi thay vì chiếu sáng, chúng ta lại ưa chuộng bóng đêm khi
mang trong mình sự ích kỷ như Hêrôđê! Sợ mất quyền, mất chức, sợ mất miếng cơm
manh áo, hay sợ liên lụy, phiền hà cách này, cách khác, mà không dám nhìn nhận
sự thật hay làm chứng và sống cho chân lý!
Mặt khác, sự kiêu ngạo,
hóng hách và tự tôn khi cho rằng mình mới xứng đáng được Chúa thương bởi vì
mình xuất thân từ một gia đình đạo hạnh, nề nếp, lễ giáo gia phong... còn những
kẻ đã vướng vào vòng lao lý của tội lỗi một thời, hay không cùng niềm tin với
mình thì không bao giờ được Thiên Chúa đoái thương và cứu độ! Tuy nhiên, việc
Thiên Chúa tỏ mình cho các Đạo Sĩ là những người dân ngoại hôm nay sẽ cật vấn
lương tâm của chúng ta nếu đã có lần chúng ta an tâm tự tại để yên bề như những
người Pharisêu, Luật Sĩ, Kinh Sư khi có thẻ kinh trên tay, quanh cổ, nơi gấu áo
và tự cho mình được quyền đặc tuyển, thì hôm nay cần phải xem lại, bởi vì ơn cứu
độ là một ơn nhưng không mà Thiên Chúa ban cho ai là tùy ý của Ngài. Mặt khác,
những khái niệm đạo đức do chính mình đặt ra và mặc cho nó một tiêu chuẩn rồi uốn
nắn, gán ghép Thiên Chúa phải theo thiển ý của mình... những thứ ấy không đủ để
đảm bảo phần rỗi, vì nó không được xây dựng trên tình yêu và lòng mến.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban
cho chúng con được nhạy bén và nhận biết Chúa qua các dấu chỉ, nhất là qua Lời
Chúa. Xin ban cho chúng con có được lòng khiêm tốn và yêu mến Chúa như các Đạo
Sĩ. Và, xin ban cho chúng con tránh xa thái độ ích kỷ, tàn ác của vua Hêrôđê
khi xưa. Amen.