CHÚA NHẬT 2
PHỤC SINH ABC – KÍNH LÒNG CHÚA THƯƠNG XÓT
Cv 5,12-16 ; Kh 1,9-11a.12-13.17-19 ; Ga 20,19-31
CẦN TRUYỀN ĐẠT
ĐỨC TIN VỚI LÒNG THƯƠNG XÓT
I. HỌC LỜI CHÚA
1. TIN
MỪNG: Ga 20,19-31
(19) Vào
chiều ngày ấy, ngày thứ nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở, các cửa
đều đóng kín, vì các ông sợ người Do Thái. Đức Giê-su đến, đứng
giữa các ông và nói: “Bình an cho anh em!” (20) Nói xong, Người cho các
ông xem tay và cạnh sườn. Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa. (21)
người lại nói với các ông:
“Bình an cho anh em! Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh
em”. (22) Nói xong, Người thổi hơi vào các ông và bảo: “Anh em hãy
nhận lấy Thánh Thần. (23) Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được
tha. Anh em cầm giữ tội ai, thì người ấy bị cầm giữ”. (24) Một người
trong Nhóm Mười Hai, tên là Tô-ma, cũng gọi là Đi-đy-mô, không ở với
các ông khi Đức Giê-su đến. (25) Các môn đệ khác nói với ông: “chúng
tôi đã được thấy Chúa!” Ông Tô-ma đáp: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở
tay Người. Nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay
vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin”. (26) Tám ngày sau, các môn đệ
Đức Giê-su lại có mặt trong nhà, có cả ông Tô-ma ở đó với các ông.
Các cửa đều đóng kín. Đức Giê-su đến, đứng giữa các ông và nói:
“Bình an cho anh em”. (27) Rồi Người bảo Ông Tô-ma: “Đặt ngón tay vào
đây và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy.
Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin”. (28) Ông Tô-ma thưa Người: “Lạy
Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!” (29) Đức Giê-su bảo: “Vì đã
thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà tin!” (30)
Đức Giê-su đã làm nhiều dấu lạ khác nữa trước mặt các môn đệ. Nhưng
những dấu lạ đó không được ghi chép trong sách này. (31) Còn những
điều đã được chép ở đây là để anh em tin rằng Đức Giê-su là Đấng Ki-tô
Con Thiên Chúa, và để anh em tin mà được sự sống nhờ Danh Người.
2. Ý CHÍNH:
Bài Tin mừng thuật lại hai lần Đức Giê-su Phục
Sinh hiện ra với các môn đệ để củng cố niềm tin của các ông như sau:
Lần thứ nhất (c 19-25): vào buổi chiều sau khi sống lại, Chúa Phục
Sinh đã hiện đến đứng giữa các môn đệ đang hội họp mà thiếu ông Tô-ma.
Người cho các ông xem các vết thương nơi bàn tay và cạnh sườn để chứng
minh Người đã sống lại sau cuộc tử nạn, rồi Người thổi hơi ban Thánh Thần
và trao quyền tha tội cho các ông. Lần thứ hai (c 24-29): Tám ngày sau,
Chúa Phục Sinh lại hiện ra với các môn đệ và lần này có cả Tô-ma. Người đã
đặc biệt đáp ứng đòi hỏi của ông này. Rồi khi Tô-ma đã tin, thì
Người dạy: “Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những người không
thấy mà tin!”.
3. CHÚ THÍCH:
- C 19-20: + Ngày thứ nhất trong tuần: Ngày nay, Giáo Hội đã chọn Ngày Thứ Nhất trong
tuần để mừng mầu nhiệm Chúa Phục Sinh và gọi là Chúa Nhật hay Ngày
Của Chúa. Đây là ngày lễ nghỉ, thay thế cho Thứ Bảy (Sa-bát) của Do
Thái Giáo. + Đức Giê-su đến: Người hiện đến trong lúc
phòng đang đóng kín. Điều này cho thấy thân xác của Người sau khi phục
sinh có đặc tính thiêng liêng siêu việt, có khả năng hiện diện ở khắp
nơi. + Bình an cho anh em! Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa:
Đức Ki-tô Phục Sinh đem lại sự bình an (x. Ga 20,19.21) và niềm
vui (x Ga 20,20) cho các môn đệ (x Ga 14,27). + Người cho các ông xem
tay và cạnh sườn: Qua đó, Người chứng tỏ Người chính là Đấng
đã từng bị đóng đinh thập giá trước đó (x. Ga 19,18), và bị lưỡi
đòng đâm thâu cạnh sườn (x. Ga 19,34). Như vậy cho thấy có sự liên kết
mật thiết giữa hai mầu nhiệm Tử Nạn và Phục Sinh.
- C 21-23 + Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy
cũng sai anh em: Tông đồ nghĩa là “được sai đi”. Sứ mạng này
xuất phát từ Chúa Cha truyền cho Đức Giê-su, và giờ đây Đức Giê-su
Phục Sinh lại truyền cho các môn đệ và tất cả các tín hữu sau này. +
Người thổi hơi vào các ông và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh
Thần”: Theo Kinh Thánh, hơi thở chính là sự sống. Như xưa, Thiên
Chúa đã thổi sinh khí vào con người A-đam và ban sự sống cho ông (x.
St 2,7), thì nay, Đức Giê-su Phục Sinh cũng thổi Thần Khí cho các môn
đệ. Rồi đến lượt các môn đệ lại sẽ ban sự sống thiêng liêng ấy cho
các tín hữu qua các bí tích. + “Anh em tha tội cho ai, thì người
ấy được tha. Anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ”: Đức
Giê-su được Gio-an Tẩy Giả giới thiệu là Con Chiên của Thiên Chúa,
Đấng xóa bỏ tội trần gian (Ga 1,29). Khi chữa lành một người bại
liệt, Đức Giê-su đã tuyên bố có quyền tha tội (x. Mt 9,6). Trong Tin
Mừng hôm nay, Người còn thiết lập bí tích giải tội, để ban quyền tha
tội cho các tông đồ bằng việc thông ban Thánh Thần cho các ông. Từ đây
các giám mục kế vị các tông đồ sẽ tiếp tục thông ban quyền tha tội
cho các linh mục là những cộng sự viên của các ngài.
- C 24-25: + Một người trong Nhóm Mười Hai tên
là Tô-ma, cũng gọi là Đi-đy-mô: Tô-ma là một trong Nhóm Mười Hai
(x. Mt 10,3). Ông mang biệt danh là “Sinh Đôi”. Tính tình bộc trực và
can đảm (x. Ga 11,16). Ông ưa nêu ra thắc mắc khi nghe Đức Giê-su giảng
để yêu cầu Người giải thích rõ hơn (x.Ga 14,5). + Nếu tôi không thấy
dấu đinh ở tay Người...: Tô-ma đòi được “mắt thấy tay sờ”,
nghĩa là đòi một đức tin khả giác giống như một nhà khoa học thực
nghiệm (x. Ga 20,25). + “... thì tôi chẳng có tin”: Nhiều
môn đệ khác cũng cứng tin như thế. Tin Mừng Nhất Lãm đã nói tới sự
cứng tin của các ông như sau: “Nhưng có mấy ông vẫn hoài nghi” (Mt
28,17); “Người khiển trách các ông không tin và cứng lòng, bởi lẽ các
ông không chịu tin những kẻ đã được thấy Người sau khi Người trỗi
dậy” (Mc 16,14) ; hoặc: “Sao anh em lại hoảng hốt ? Sao còn ngờ
vực trong lòng ?” (Lc 24,38).
- C 26-27: + “Đặt ngón tay vào đây, và hãy
nhìn xem tay Thầy”. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn
Thầy: Đức Giê-su đã thoả mãn đòi hỏi của Tô-ma. + Đừng
cứng lòng nữa, nhưng hãy tin: Tuy khiển trách Tô-ma, nhưng Đức Giê-su
cũng cảm thông với sự cứng tin của ông và muốn ông hãy vững tin vào mầu
nhiệm Phục Sinh của Người.
- C 28-29: + Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa
của con !”: Tô-ma là môn đệ cuối cùng tin nhận Đức Giê-su đã
từ cõi chết sống lại, nhưng ông là người đầu tiên đã tuyên xưng một đức
tin đầy đủ nhất: Đức Giê-su vừa là “Chúa” (Đấng Mê-si-a), vừa là “Con
Thiên Chúa” (x Mt 16,16). + Phúc thay những người không thấy mà
tin”: Qua câu này, Chúa Giê-su muốn dạy các môn đệ: Từ nay, đức
tin vào mầu nhiệm Phục Sinh không được dựa trên kinh nghiệm khả giác
về các lần hiện ra nữa, nhưng cần dựa trên lời chứng của các tông đồ
(x. Ga 19,35). Sau này các ông đã sẵn sàng chịu chết để minh chứng đức
tin vào mầu nhiệm Chúa Phục Sinh.
4. HỎI ĐÁP:
HỎI 1) Thân
xác Chúa Giê-su sau phục sinh có phải là thân xác đã chịu khổ nạn
trước đó không?
ĐÁP:
Thân xác Chúa Giê-su sau khi phục sinh cũng chính
là thân xác đã từng trải qua cuộc khổ nạn. Trong Tin mừng hôm nay
Chúa Giê-su đã chứng minh mầu nhiệm Phục Sinh gắn liền với cuộc Tử
Nạn trước đó qua việc: “Cho các môn đệ xem các vết thương ở hai bàn tay
và cạnh sườn Người” (c.20), cho sờ vào Người (x. Lc 24,36-40), và cho
xem việc Người ăn một khúc cá nướng (x. Lc 24,41-43) để chứng minh Người
thực đang còn sống chứ không phải hồn ma.
Tuy nhiên thân xác Chúa Giê-su sau khi phục sinh lại
có những đặc tính khác thường như: Đi xuyên qua tường mà vào nhà
Tiệc ly khi các cửa nhà đều đóng kín vì sợ người Do thái (x. Ga
20,19). Khuôn mặt của Người sau phục sinh biến đổi khác trước khiến cô
Ma-ri-a gặp Người mà lầm tưởng là người làm vườn (x. Ga
20.14-15), khiến hai môn đệ làng Em-mau không nhận ra Người trong
suốt chặng đường dài đồng hành với Người và được nghe Người giải thích Kinh
thánh (x. Lc 24,16). Thân xác Người có đặc tính siêu việt: Dù không
có mặt tại chỗ mà vẫn biết được các đòi hỏi của ông Tô-ma (x. Ga 20,25).
HỎI 2) So sánh hai lần Chúa Phục Sinh hiện ra với các
môn đệ cách nhau một tuần lễ giống và khác nhau như thế nào ?
ĐÁP:
- Về nơi chốn và thời gian: Hai lần Chúa Phục Sinh đều hiện
ra với nhóm môn đệ tại nhà Tiệc Ly và cùng vào chiều Ngày thứ Nhất trong
tuần nhưng cách nhau 8 ngày. Từ đây Ngày thứ Nhất trở thành Ngày của Chúa
(Chúa Nhật) thay thế ngày Hưu Lễ (Sa-bát) của đạo Do thái.
- Về số môn đệ hiện diện: Lần thứ nhất số các môn đệ hiện
diện là 10 vị do thiếu Tô-ma và lần thứ hai đủ 11 vị. Cả hai lần đều thiếu
Giu-đa phản bội.
- Về lời chào đầu tiên: Trong cả hai lần Chúa Phục Sinh đều
chào các môn đệ bằng một công thức giống nhau: “Bình an cho anh
em !”.
HỎI 3) Trong
lần hiện ra thứ hai với các Tông đồ và có Tô-ma ở đó. Chúa Phục Sinh
đã ra lệnh cho Tô-ma sờ vào các vết thương ở tay và cạnh sườn Người.
Vậy Tô-ma có làm như vậy không?
Đáp:
Tô-ma tượng trưng cho những người cứng tin, chỉ tin
Chúa thực sự sống lại dựa vào cảm nghiệm và sự xét đoán theo lương
tri của mình, chứ không dựa trên lời nói của người khác kể lại. Nhưng
trong lần này, sau khi được gặp Chúa Phục Sinh và được nghe Người truyền xỏ
ngón tay vào lỗ đinh ở bàn tay Thầy, thọc bàn tay vào vết thương ở
cạnh sườn Thầy đúng như đòi hỏi trước đó của ông, thì Tô-ma đã tin Thầy
thực sự sống lại, biểu lộ qua lời tuyên xưng: “Lạy Chúa của con. Lạy
Thiên Chúa của con!”. Tin mừng không đề cập đến việc ông có sờ vào các
vết thương ở tay chân và cạnh sườn Thầy như ông đã yêu cầu trước đó hay
không (c. 27-28).
HỎI 4) Đức
tin của Tô-ma giá trị thế nào đối với đức tin của các tín hữu sau này ?
ĐÁP:
Chúa Giê-su nói với Tô-ma và qua ông, Người muốn
nhắn nhủ các tín hữu chúng ta hôm nay: “Vì đã thấy Thầy, nên anh tin.
Phúc thay những người không thấy mà tin!” (Ga 20,29). Thực vậy: có
những mầu nhiệm về Thiên Chúa, mà người phàm tuy không thể thấy hay
không cảm nghiệm được nhưng vẫn phải tin qua các chứng nhân đức tin. Vì đức
Tin là điều kiện để được vào Nước Trời của Chúa Giê-su: "Ai tin và chịu
phép rửa, sẽ được cứu độ; còn ai không tin sẽ bị kết án" (Mc 16,16).
Nên biết rằng cũng nhờ tuyên
xưng đức tin, mà tông đồ Phê-rô đã được Chúa Giê-su đặt làm đá tảng
đức tin của Hội thánh, được trao quyền cầm buộc và tháo cởi (x. Mt
16,18-19), quyền chăn chiên (x. Ga 21,15-17) và quyền củng cố đức tin cho
các anh em (x. Lc 22,23). Các Tông đồ cũng được Chúa Giê-su trao quyền
giáo huấn về đức tin: “Ai nghe anh em là nghe Thầy. Ai khước từ anh em
là khước từ Thầy. Mà ai khước từ Thầy là khước từ Đấng đã sai
Thầy” (Mt 10,40; Lc 10,16).
Tóm lại: Việc tông
đồ Tô-ma cứng tin lại chính là sự bảo đảm cho lòng tin của chúng ta hôm nay. Vì
niềm tin vào mầu nhiệm Chúa sống lại của chúng ta không chỉ dựa trên những lời
rao giảng, nhưng dựa trên đức tin của những chứng nhân sáng suốt và thực tế, đã
nhìn thấy tận mắt và đã sờ tận tay chính Chúa Phục Sinh. Do đó, thánh Grê-gô-ri-ô
đã quả quyết như sau: ”Chính ngón tay đa nghi của Tô-ma đã trở nên ông thầy của
toàn thế giới; bàn tay đa nghi của Tô-ma đã dạy cho mọi người một sự thật chắc
chắn. Đó là Đức Giê-su đã sống lại”.
II. SỐNG LỜI
CHÚA
1. LỜI CHÚA: “Như
Chúa Cha đã sai Thầy, thì thầy
cũng sai anh em” (Ga 20,21).
2. CÂU CHUYỆN:
1) TẦM QUAN
TRỌNG CỦA ĐỨC TIN TRONG CUỘC SỐNG:
Cha
Anthony de Mello kể một câu chuyện về một tu
sĩ Hồi Giáo tên Nas-rud-din như sau:
Một
ngày nọ, nhà của thầy Nas-rud-din bốc cháy. Để được an toàn, thầy vội trèo lên
mái nhà. Các bạn hữu tụ tập bên dưới rất lo lắng, vì mạng sống thầy chỉ còn
"ngàn cân treo sợi tóc". Họ liền căng một tấm thảm dưới sân, chia
nhau giữ bốn góc thảm rồi cùng giơ thảm lên và hô lớn:
-
Nhảy đi, Thầy hãy mau nhảy xuống đi!
Thầy
Nas-rud-din nói:
-
Không được, tôi không nhảy đâu. Thế nào các anh cũng rút tấm thảm đi, để biến
tôi thành trò cười cho các anh !
-
Ôi, Thầy ơi ! Không phải chuyện đùa đâu, Thầy phải mau nhảy xuống đi !
Thầy
Nas-rud-din vẫn ngoan cố không nghe và nói :
-
Không! Tôi chẳng tin ai cả. Cứ trải thảm xuống đất đi, rồi tôi sẽ nhảy.
Tin
là thái độ chấp nhận sự bấp
bênh, chấp nhận mình có thể bị lừa
dối. Nhưng thực tế người ta sẽ không thể sống nếu không tin vào người khác.
Trên đời này có biết bao điều chúng ta không thấy mà vẫn tin. Chẳng ai thấy
lòng dạ con người, nhưng mọi người đều tin vào tình yêu, tình vợ chồng, tình bạn
hữu...
2) TẠI SAO NGƯỜI TA CÓ THỂ NHẬN BIẾT
VÀ TIN THỜ THIÊN CHÚA ?
Có một
nhà bác học đã vượt qua sa mạc với mấy người Ả Rập dẫn đường. Nhà bác học
để ý cứ vào lúc hoàng hôn, thì những người Ả Rập đều dừng lại trải chiếu trên
cát, mặt hướng về mặt trời cầu nguyện. Nhà bác học hỏi:
-
Các ông đang làm gì vậy ?
Họ
liền trả lời: Chúng tôi thờ lạy và cầu nguyện cùng Allah là Thiên Chúa của
chúng tôi.
Nhà
bác học hỏi lại:
-
Vậy chứ các ông đã thấy Allah bao giờ chưa? Có sờ tay đụng tới Ngài chưa? Hoặc
đã từng nghe thấy tiếng Ngài nói khi nào chưa?
Hướng
dẫn viên Ả Rập mỉm cười đáp lại:
-
Chưa, thực ra chúng tôi chưa hề mắt thấy tai nghe Allah bao giờ cả?
Nhà
bác học lên giọng:
-
Các ông thực là những người điên, khi mù quáng sấp mình thờ lạy một Chúa mà các
ông chưa hề xem thấy hoặc chưa hề nghe tiếng Ngài.
Hướng
dẫn viên Ả Rập giữ im lặng không đáp lại lời nào hết.
Sáng
hôm sau, mặt trời chưa ló dạng, nhà bác họ đã thức dậy, bước ra khỏi lều quan
sát và sau đó nói với hướng dẫn viên:
-
Ông hãy nhìn mà xem, chắc chắn là tối hôm qua đã có một con lạc đà đi ngang qua
đây rồi.
Ônghướng
dẫn viên liền hỏi nhà bác học:
-
Vậy chắc ông đã nhìn thấy lạc đà đi ngang qua đây đêm hôm qua chứ? Hoặc là tay
đã sờ vào lông con lạc đà trong lúc ông đang ngủ chăng?
Nhà
bác học thật thà đáp lại:
-
Không, tối hôm qua tôi ngủ rất ngon, đâu có nhìn thấy lạc đà và cũng không sờ vào
lông nó.
Hướng
dẫn viên lại hỏi:
-
Vậy thì ông cũng chẳng khác gì người điên. Ông quả quyết có lạc đà đã đi ngang
qua đây tối hôm qua, trong khi mắt ông không thấy, tai ông không nghe tiếng bước
chân lạc đà.
Nhà
bác học cương quyết cãi lại:
-
Nhưng đây là bằng chứng rõ ràng: Ông không trông thấy dấu chân lạc đà còn
nguyên trên mặt cát đây sao?
Cùng
lúc đó, mặt trời bắt đầu ló rạng. Hướng dẫn viên Ả Rập giang tay trịnh trọng
tuyên bố:
-
Này ông bạn của tôi ơi! Ông hãy nhìn xem mặt trời và những tia sáng rực rỡ huy
hoàng kia, đó chẳng phải là dấu chỉ sự hiện diện của Allah, Chúa chúng tôi tôn
thờ hay sao ?
3) SỨC MẠNH CỦA MẦU NHIỆM PHỤC SINH:
Có
một câu chuyện kể lại rằng, một nhà thông thái kia muốn lập ra một tôn giáo mới
với giáo lý rất dễ hiểu dễ tin. Nhưng ròng rã nhiều năm, ông đem tất cả sự khôn
ngoan ra để thuyết phục thiên hạ mà chẳng mấy người tin theo. Ông bèn than thở
với một người bạn thân thì nhận được một lời khuyên như sau: “Nếu anh muốn người
ta theo anh thì dễ thôi, anh hãy làm thế này: Thứ năm anh ăn bữa tiệc cuối
cùng, thì thứ sáu anh để người ta đóng đinh anh trên khổ giá rồi chôn cất, Chúa
nhật anh sống lại! Chắc chắn người ta sẽ theo anh rất đông?”.
Quả
là lời khuyên độc đáo, và lại càng lý thú hơn, khi tác giả của lời khuyên này
chính là Na-pô-lê-on! Điều mà Na-pô-lê-on
muốn nhấn mạnh ở đây, đều có sức lôi cuốn người ta chính là sự sống lại. Thực vậy,
biến cố Chúa Kitô Phục sinh chính là nền tảng và trung tâm của đời sống đức tin
Kitô giáo chúng ta.
4) THỰC THI
LÒNG MẾN CỤ THỂ: PHƯƠNG THẾ LOAN BÁO TIN MỪNG HỮU HIỆU:
Ngày nay rao giảng về mầu nhiệm Chúa Phục Sinh cho người khác có thể chấp
nhận không dễ dàng. Ngòai việc cần ơn trợ giúp của Chúa, còn cần phải có chứng
tích cụ thể của người rao giảng. Câu chuyện sau đây là một bằng chứng:
Một vị linh mục ở nước Bờ-ra-din (Brasin) đã
thuật lại kinh nghiệm truyền giáo của mình như sau: “Mỗi ngày, khi đi
ngang qua một con đường ở Ri-ô đờ Da-nê-rô (Rio de Janeiro), tôi đều thấy
một thanh niên ngồi dựa lưng vào tường và chìa chiếc nón ra xin tiền
khách qua đường. Anh ta không đi lại được vì đôi chân bị què. Sau đó vì
đã nhiều lần qua lại trên con đường này, nên tôi không còn để ý đến
chàng thanh niên hành khất bị què kia nữa.
Rồi một hôm, khi tôi đang đứng nói chuyện với một
người quen ở bên kia đường, thì thấy có nhiều người đi ngang qua chỗ
anh què ngồi ăn xin mà làm như không nhìn thấy anh và không chia sẻ tiền
bạc gì giúp đỡ anh. Tôi liền nghĩ đến thái độ làm lơ của thầy tư
tế và thầy lê-vi trong dụ ngôn người Sa-ma-ri nhân hậu. Hai ông này đã
tránh sang một bên đường mà đi và chỉ có người Sa-ma-ri ngoại giáo
tỏ lòng thương xót nạn nhân bằng hành động cụ thể (x. Lc 10,30-35).
Tôi quyết định noi gương người Sa-ma-ri nên đã vui vẻ tiến lại gần bắt
chuyện: “Này anh bạn, anh có thể đứng dậy được không? Anh có muốn đi
đứng giống như mọi người không? ...”Lúc đầu, anh ta đưa cặp mắt mệt mỏi
nhìn tôi dò xét, và khi đọc được sự thành thật trên gương mặt của
tôi, anh đã trả lời: “Tôi luôn hy vọng sẽ có ngày cuộc đời của tôi
tốt hơn và tôi được thoát khỏi cái nghề ăn xin nhục nhã hiện nay. Dĩ
nhiên là tôi mơ ước một ngày nào đó tôi có thể tự mình đi đứng được
như bao người khác. Nhưng làm sao kiếm ra tiền để lắp một đôi chân giả
và mua được một cặp nạng đây?” Sau khi nghe anh tâm sự, tôi đã síết
chặt tay anh và nói: “Tôi xin hứa là trong một ngày gần đây, giấc mơ
của anh sẽ trở thành hiện thực”.
Trong bài giảng Thánh lễ Chúa Nhật mùa Chay hôm
ấy, tôi đã kể về số phận đáng thương của người ăn xin này cùng với
ước mơ nhỏ bé của anh. Rồi tôi đề nghị cộng đoàn cùng nhau làm một
cuộc lạc quyên tại chỗ để giúp đỡ anh ta như một cách ăn chay tinh
thần. Số tiền lạc quyên thu được trong thánh lễ hôm ấy đã gần đủ tiền chi
phí làm đôi chân giả và cặp nạng gỗ mà người ăn xin đang cần. Tuần
sau, khi tôi và hai đại diện cộng đoàn đến gặp và cho biết kết quả
thì chàng thanh niên kia rất vui mừng. Ngay lúc đó, anh được chở đến
bệnh viện chấn thương chỉnh hình để được ráp một đôi chân giả, và bắt
đầu tập đi với đôi nạng mới.
Trong lễ Phục Sinh năm ấy, tôi mời anh đến nhà thờ
dự lễ và dành cho anh chỗ ngồi đặc biệt cạnh bàn thờ chính. Trong
bài giảng, tôi đã đề cập đến trường hợp của anh như sau: “Hôm nay
chúng ta mừng ngày Chúa Giê-su trỗi dậy từ trong cõi chết, bước vào
một cuộc sống mới. Người kêu gọi chúng ta mở rộng lòng giúp đỡ
những anh chị em đang lâm cảnh nghèo khổ để họ có cuộc sống tốt đẹp
hơn. Hôm nay, nhờ sự quảng đại của cộng đòan mà anh bạn của chúng ta
đây đã nhận được một cuộc sống mới”. Nói đến đây tôi mời anh què
đứng dậy để giới thiệu anh với cộng đoàn. Sau đó mọi người trong
nhà thờ đều phấn khởi khi nghe những lời phát biểu chân thành của
anh, và vỗ tay tán thưởng khi nghe anh ngỏ ý xin gia nhập cộng đoàn.
Cuối cùng anh què đã được xếp vào đội hình những người lên dâng lễ
hôm đó.
3. THẢO LUẬN: 1) Bạn đánh giá thế nào về phương cách
truyền giáo của vị linh mục người Bờ-ra-din trong câu chuyện trên? 2) Bạn
sẽ làm gì trong những ngày này để giúp một người lương tin nhận Chúa và đón
nhận được ơn cứu độ của Người ?
4. SUY NIỆM:
1) Dễ tin và cứng lòng:
- Trong cuộc sống đời thường, ngòai việc nhận biết mọi sự nhờ
tai nghe mắt thấy, chúng ta còn cần tin
vào lời dạy của thầy cô ở nhà trường thì mới có thể thăng tiến về học tập và trau dồi kiến thức; Tin
vào cha mẹ mới nên người tốt được; Tin
vào đối tác làm ăn mới kinh doanh thành công được... Tuy nhiên thực tế nhiều khi
chúng ta đã bị lừa khi “tiền mất tật mang” nếu dễ tin, khi vâng theo lời những kẻ
lừa đảo ăn nói giảo hoạt. Do đó, chỉ nên tin nếu hợp lý và người nói có uy tín chưa
từng dối gạt ai và “nói có sách, mách có chứng”.
- Riêng về mầu nhiệm Phục Sinh của Chúa Giê-su, các môn đệ
không phải là những người dễ tin: Dù các ông đã từng được nghe Đức Giê-su ba lần
tiên báo về cuộc khổ nạn và phục sinh của Người tại Giê-ru-sa-lem, nhưng các
ông vẫn không muốn chấp nhận điều đó (x Mt 16,21-23). Rồi sau cuộc tử nạn của
Chúa, khi bà Ma-ri-a Mác-đa-la báo tin Thầy Giê-su vẫn còn sống và chính bà đã
được gặp Người, nhưng các ông vẫn không tin (x Mc 16,9-11). Vào chiều ngày Thứ
Nhất trong tuần, khi Chúa Phục Sinh hiện đến tại nhà Tiệc Ly cửa đóng then cài thì
các môn đệ sợ hãi như nhìn thấy ma. Chúa Giê-su đã phải trấn an các ông và chứng
minh cho các ông thấy Người không phải là ma: “Sao anh em lại hỏang hốt ? Sao
anh em ngờ vực trong lòng ? Nhìn chân tay Thầy coi, chính Thầy đây mà! Cứ rờ
xem, ma đâu có xương có thịt như anh em thấy Thầy có đây” (Lc 24,38-40). Sau đó
thấy các ông vẫn chưa tin, Người đã ăn
một mẩu cá nướng trước mặt các ông (x Lc 24,41-43). Do đó một khi
các ông tin là đã dựa vào những chứng cớ xác thực.
2) Đức tin của Tô-ma và của các tín hữu hôm nay:
- Tô-ma chính là mẫu gương cho đời sống đức tin của các
tín hữu chúng ta. Tô-ma đã từng xa lìa cộng đoàn sau khi Thầy bị bắt và đã sống
trong u sầu thất vọng. Nhưng rồi ông đã quay về với cộng đoàn và đã tìm thấy đức tin vào mầu nhiệm
Chúa phục sinh.Tuy Tô-ma cứng tin, nhưng sau khi đã gặp Chúa và cảm nghiệm về tình
thương của Người, ông đã đạt tới một đức tin sâu xa và vững mạnh hơn các môn đệ
khác qua lời tuyên xưng: “Lạy Chúa của con. Lạy Thiên Chúa của con !” (Ga
20,28). Chúa Giê-su đã qua Tô-ma chúc phúc cho các tín hữu sau này: “Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay người
không thấy mà tin” (Ga 20,29).
- Ngày nay tuy không ai trong chúng ta được gặp Chúa Phục
Sinh, không trực tiếp nghe lời của Người, cũng không được ăn uống tiếp xúc với
Người như các tông đồ khi xưa… Nhưng đức tin của chúng ta sẽ có phúc nếu chúng
ta tin vào lời rao giảng của các tông đồ là những người không dễ tin nhưng đã cảm
nghiệm được mầu nhiệm phục sinh như thánh Grê-gô-ri-ô đã nói: “Ngón tay đa nghi
của Tô-ma đã trở nên ông thầy của toàn thế giới ; Bàn tay đa nghi của Tô-ma đã
dạy cho mọi người một sự thật chắc chắn, đó là Đức Giê-su Ki-tô thực sự đã sống
lại”. Triết gia Pas-cal cũng đồng quan điểm khi nói : "Đức tin không đến từ
lý trí nhưng từ con tim."
3) Truyền
đạt Đức Tin cho con người ngày nay bằng cách nào ? :
Trước khi về trời, Chúa Phục Sinh đã trao cho Hội Thánh sứ
vụ loan báo Tin Mừng cho muôn dân (x Mt 28,19-20). Rao giảng Tin Mừng
cho thế giới hôm nay thực không dễ chút nào. Muốn thuyết phục con người ngày
nay tin vào Chúa Giê-su, tin vào Tin Mừng mà Người rao giảng thì cần có các điều
kiện như sau:
- Một
là phải cầu xin ơn Thánh Thần:
Các tông đồ xưa sau khi Chúa lên trời đã cầu nguyện kết hiệp với Đức Ma-ri-a và
các anh em Chúa, với các môn đệ… nên đã nhận được ơn Thánh Thần trong ngày lễ
Ngũ Tuần. Sau khi được Thánh Thần tác động, việc tông đồ truyền giáo của các
ông mới thành công: Sau bài giảng đầu tiên của Phê-rô đã có ba ngàn người xin
theo đạọ (x. Cv 2,41). Thực đúng như lời Đức Giê-su đã nói với các môn đệ trong
bữa tiệc ly: “Thầy là cây nho, anh em là cành. Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại
trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái, vì không có Thầy, anh em chẳng
làm gì được” (Ga 15,5).
- Hai là phải hiệp nhất với các mục
tử trong Hội Thánh: Chỉ
khi kết hiệp với Chúa Giê-su và vâng nghe lời sai đi của các vị chủ chăn trong
Hội Thánh, việc tông đồ của chúng ta mới được ơn Chúa giúp và mang lại kết quả như
câu chuyện mẻ cá lạ lùng: ông Si-mon đã thưa với Đức Giê-su: “Thưa Thầy, chúng tôi đã vất vả suốt đêm, mà không bắt được gì cả. Nhưng dựa vào lời Thầy, tôi sẽ thả lưới”. Các ông đã làm như vậy, và bắt được rất nhiều cá, đến
nỗi hầu như rách cả lưới (Lc 5,6). Thánh Phao-lô cũng dạy: “Làm sao họ kêu cầu
Đấng họ không tin ? Làm sao họ tin Đấng họ không được nghe ? Làm sao mà nghe, nếu
không có ai rao giảng ? Làm sao rao giảng, nếu không được sai đi ?” (Rm 10,14-15).
- Ba là phải rao giảng bằng lối sống
chứng nhân tình thương: Thế
giới ngày nay đầy rẫy những kẻ hoài nghi và vô tín. Cách thức duy nhất làm cho
họ tin là giúp họ “nhìn thấy”
Đức Giê-su và “đụng chạm“ vào
Người qua chính lối sống của các tín hữu, qua lời nói thân thiện lễ độ và lối ứng
xử khiêm tốn phục vụ của các chứng nhân đức tin, như Đức Phao-lô VI đã nói: “Người
đương thời sẵn sàng nghe các chứng nhân hơn là thầy dậy, hoặc nếu họ có nghe thầy
dậy, thì bởi vì chính các thầy dậy cũng là những chứng nhân”.
4) Thể hiện “Lòng
Chúa Thương xót” đối với tha nhân:
- Vào
ngày 30/4/2000 Thánh Giáo Hoàng Gio-an Phao-lô II đã tuyên thánh cho Nữ tu Faus-ti-na
Ko-wals-ka và chọn ngày Chúa Nhật II Phục Sinh hằng năm làm ngày kính Lòng Chúa
Thương Xót. Tông đồ Tô-ma đã được Chúa Giê-su thương xót khi thỏa mãn đòi hỏi được
mắt thấy tay sờ của ông. Sau này Chúa Phục Sinh cũng hiện ra với thánh nữ Faus-ti-na
qua một thị kiến bày tỏ lòng thương xót của Người. Thánh nữ Faus-ti-na đã thuật
lại thị kiến ấy như sau : “Người mặc y phục trắng, bàn tay phải ban phép lành,
bàn tay trái vén mép áo ngực, từ đó thoát ra các tia sáng xám và đỏ, tượng
trưng bí tích Thánh Thể và bí tích Rửa Tội”.
-
Đức Giê-su là hiện thân Lòng Thương Xót của Chúa Cha qua việc chịu đau khổ do các
vết thương ở tay chân, qua nước và máu chảy ra từ cạnh sườn bị đâm thâu. Chúng
ta hãy cùng thánh nữ Faus-ti-na thưa với Người rằng: “Lạy Chúa Giê-su, con xin
tín thác vào Người !” Mỗi người hãy trở thành hiện thân của Lòng Chúa
thương xót đối với các tội nhân qua lối sống yêu thương hiệp nhất, chia sẻ các
món quà cụ thể và luôn quan tâm săn sóc những người bệnh tật đau khổ, sẵn sàng
tha thứ lỗi lầm cho những ai xúc phạm đến mình…
5. LỜI CẦU:
- LẠY CHÚA GIÊ-SU. Tông đồ Tô-ma tuy lúc đầu cứng
tin, nhưng sau đó đã đạt đến một đức tin trọn hảo khi ông gặp được Chúa
Phục Sinh. Cũng nhờ sự “cứng tin” của Tô-ma lại trở thành chỗ dựa
vững chắc cho đức tin của chúng con hôm nay. Rồi đến lượt các tông đồ
cũng chứng tỏ lòng trung thực và khiêm tốn, khi không chỉ thuật lại những
điều tốt lành, mà còn thuật lại cả những thiếu sót, chậm tin và hồ nghi
của các ngài… để nhờ đó đức tin của chúng con hôm nay thêm vững mạnh.
Giờ đây cùng với tông đồ Tô-ma, chúng con tuyên xưng đức tin: “Lạy Chúa Giê-su.
Chúa chính là Đấng Cứu Thế và là Thiên Chúa của chúng con. Xin thương xót
chúng con”.
- LẠY THIÊN
CHÚA LÀ CHA GIÀU LÒNG TỪ BI THƯƠNG XÓT. Xin cho chúng con được ngụp lặn trong
đại dương bao la của Lòng Chúa Thương Xót, được tắm gội trong Máu và Nước đã
tuôn trào từ Thánh Tâm Con yêu dấu của Cha là Chúa Giê-su. Vì cuộc khổ nạn đau
thương của Chúa Giê-su Ki-tô, xin thương xót chúng con và toàn thế giới. Xin
hai Thánh Faus-ti-na và Gio-an Phao-lô II cầu bầu cùng Chúa cho chúng con hôm
nay và luôn mãi.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
LM ĐAN VINH - HHTM