CHÚA NHẬT 32
THƯỜNG NIÊN C
2Mcb 7,1-2.9-14
; 2Tx 2,16-3,5 ; Lc 20,27-38.
TIN VÀO CUỘC SỐNG
VĨNH HẰNG ĐỜI SAU
I.HỌC LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG: Lc 20,27-38
(27) Có mấy người thuộc nhóm Xa-đốc đến gặp Đức Giê-su.
Nhóm này chủ trương không có sự sống lại. (28) Mấy người ấy hỏi Đức
Giê-su: “Thưa Thầy, ông Mô-sê có viết cho chúng ta điều luật này: “Nếu
anh hay em của người nào chết đi, đã có vợ mà không có con, thì
người ấy phải cưới lấy nàng, để gây dựng một dòng giống cho anh hay
em mình”. (29) Vậy nhà kia có bảy anh em trai. Người anh cả lấy vợ,
nhưng chưa có con thì đã chết. (30) Người thứ hai, (31) rồi người thứ
ba đã lấy người vợ góa ấy. Cứ như vậy, bảy anh em đều chết đi mà
không để lại đứa con nào. (32) Cuối cùng, người đàn bà ấy cũng
chết. (33) Vậy trong ngày sống lại, người đàn bà ấy sẽ là vợ ai,
vì cả bảy đều đã lấy nàng làm vợ ? (34) Đức Giê-su đáp: “Con cái
đời này cưới vợ lấy chồng, (35) chứ những ai được xét là đáng hưởng
phúc đời sau và sống lại từ cõi chết, thì không cưới vợ cũng chẳng
lấy chồng. (36) Quả thật, họ không thể chết nữa, vì được ngang hàng
với các thiên thần. Họ là con cái Thiên Chúa, vì là con cái sự sống
lại. (37) Còn về vấn đề kẻ chết trỗi dậy, thì chính ông Mô-sê
cũng đã cho thấy trong đoạn văn nói về bụi gai, khi ông gọi Đức Chúa
là Thiên Chúa của tổ phụ Áp-ra-ham, Thiên Chúa của tổ phụ I-xa-ác,
và Thiên Chúa của tổ phụ Gia-cóp. (38) Mà Người không phải là Thiên
Chúa của kẻ chết, nhưng là Thiên Chúa của kẻ sống, vì đối với
Người, tất cả đều đang sống.
2. Ý CHÍNH: Những người phái Xa-đốc không tin có sự sống lại
sau này, nên khi nghe Đức Giê-su giảng về mầu nhiệm kẻ chết sống lại, họ đã tìm
cách phi bác giáo lý ấy qua một câu chuyện giả tưởng về bảy anh em nhà kia theo
luật Thế Huynh của Mô-sê đã tiếp nối nhau lấy cùng một người đàn bà và đều chết
mà không có con. Từ đó họ đặt vấn đề: Nếu có chuyện kẻ chết sống lại thì
người đàn bà ấy sẽ là vợ của ai trong bảy anh em ? Đức Giê-su đã dùng Kinh
Thánh để chứng minh có cuộc sống vĩnh hằng sau đời tạm này, và còn cho biết cuộc
sống ấy như thế nào.
3. CHÚ THÍCH:
- C 27-28: + Có mấy người thuộc nhóm Xa-đốc: Đây
là một số người thuộc hàng tư tế phục vụ Đền thờ, là những người không
tin có sự sống lại cũng như không tin có đời sau, đang khi người Pha-ri-sêu
thì tin kẻ chết sẽ sống lai (x. Cv 23,8), dựa vào lời sấm của ngôn sứ Đa-ni-en
như sau: “Trong số những kẻ an nghỉ trong bụi đất, nhiều người sẽ trỗi
dậy: người thì để hưởng phúc trường sinh, kẻ thì để chịu ô nhục và bị
ghê tởm muôn đời. Các hiền sĩ sẽ chói lọi như bầu trời rực rỡ. Những ai làm cho
người người nên công chính, sẽ chiếu sáng muôn đời như những vì sao.” (x. Đn
12,2-3). Còn Đức Giê-su luôn khẳng định giáo lý về mầu nhiệm kẻ chết sống lại
đối lập với phái Xa-đốc, nên phái này đã đến nêu thắc mắc nhằm phi bác giáo
lý kẻ chết sống lại của Đức Giê-su và các người Biệt phái. + Thưa Thầy,
ông Mô-sê có viết cho chúng ta điều Luật này...: Nhằm chế diễu
giáo lý về sự sống lại, nhóm Xa-đốc đã trưng ra điều luật “Thế
huynh” của Mô-sê nội dung như sau: Nếu người anh lấy vợ mà chết không
con, thì em trai của anh ta phải lấy bà chị dâu làm vợ. Đứa con sinh
ra đầu tiên sẽ được Luật pháp công nhận là con của người anh đã
chết, để cho người anh có con cái nối dòng (x. Đnl 25,5).
- C 29-33: + Vậy nhà kia có bảy anh em trai...:
Nhóm này đưa ra câu chuyện giả định chưa từng xảy ra. Sai lầm của
nhóm Xa-đốc là đã quan niệm rằng khi sống lại thì người ta cũng sẽ
sống y như khi còn sống ở trần gian. Nghĩa là hai người đã là vợ
chồng thì khi sống lại sẽ vẫn sống đời vợ chồng với nhau.
-
C 34-36: + Con cái đời này cưới vợ lấy chồng: “Con cái
đời này” là những người thuộc về trần gian. Câu này có nghĩa là:
Vì sự sống của con người ở trần gian có sinh có tử, nên người ta
cần phải lấy vợ lấy chồng để sinh con cái nối dòng. + “Nhưng
những ai được xét là đáng hưởng phúc đời sau và sống lại từ cõi
chết”: Câu này chỉ nhấn mạnh đến việc kẻ lành sống lại để
được hưởng vinh quang, và không đề cập đến số phận của kẻ dữ. Thực
ra không chỉ những người được Thiên Chúa tuyển chọn và xét xứng đáng
mới được sống lại, nhưng là tất cả mọi người: tội lỗi cũng như công
chính, đều được sống lại, như thánh Phao-lô đã đề cập trong sách Công
Vụ như sau: “Tôi đặt nơi Thiên Chúa niềm hy vọng này là: người lành
kẻ dữ sẽ sống lại” (Cv 24,15; x Ga 5,28-29; Mt 25,34-45). + Thì
không cưới vợ, cũng chẳng lấy chồng: Họ không dựng vợ gả
chồng, một là vì thân xác sẽ được siêu hóa không bao giờ chết và nên giống
như các thiên thần; Hai là vì họ trở nên con cái của Thiên Chúa, hay
con cái của sự sống lại, nghĩa là được thừa hưởng một thế giới
mới và được sự sống mới từ nơi Thiên Chúa (x. Ep 1,5; Rm 8,18-21).
-
C 37-38: + Còn vấn đề kẻ
chết trỗi dậy...: Đức Giê-su đã dựa vào Thánh kinh để
chứng minh có sự sống lại của những kẻ đã chết. Người nêu ra một
đoạn trong sách Xuất hành: Khi hiện ra với Mô-sê trong bụi gai đang
cháy, Thiên Chúa đã tự xưng là Thiên Chúa của Áp-ra-ham, Thiên Chúa
của I-xa-ác và Thiên Chúa của Gia-cóp (x. Xh 3,6). + Mà Người
không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là Thiên Chúa của kẻ
sống: Các Tổ phụ Áp-ra-ham, I-xa-ác và Gia-cóp dù đã chết,
nhưng qua câu nói với Mô-sê, Thiên Chúa cho biết các vị ấy hiện vẫn
đang sống với Chúa.
4. CÂU HỎI: 1)Trong hai nhóm Pha-ri-sêu va Xa-đốc,
nhóm nào tin xác lòai người ngày tận thế sẽ sống lại, nhóm nào
không tin ? 2)Luật “Thế huynh” của Mô-sê quy định thế nào về việc kết
hôn giữa em trai với chị dâu ? 3)Phải chăng chỉ những người lành thánh
mới được sống lại vào ngày tận thế, còn những kẻ tội lỗi sẽ chết
luôn và không bao giờ sống lại ? 4)Đức Giê-su đã dựa vào bằng chứng
nào để khẳng định mọi người sẽ sống lại ngày tận thế ?
II.SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: “Thiên Chúa không
phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là Thiên Chúa của kẻ sống” (Lc
20,38).
2. CÂU CHUYỆN:
1)
HÌNH ẢNH MINH HỌA VỀ CÁI CHẾT:
ĐÊ-VÍT MA-CỚT (David Marcus) là
một viên sĩ quan của quân đội Ít-ra-en đã chết trận vào tháng 6 năm
1948. Người ta đã tìm thấy một cuốn nhật ký, trong đó ông đã ghi lại cảm
nghĩ của ông về cái chết có thể xảy ra với ông như sau:
“Tôi
đang đứng trên một bến cảng ở bờ biển. Trước mặt tôi là một con tàu
vừa trương buồm chuẩn bị ra khơi. Con tàu trông mới hùng vĩ và đẹp
làm sao ! Tôi đứng nhìn theo nó cho đến khi nó chỉ còn là một vệt
trắng ở đường chân trời. Lúc đó, có một người bạn đứng cạnh tôi
nói to lên rằng: “Xem kìa, con tàu đã biến mất rồi !”. Nhưng thực ra
nó đâu có biến mất. Nó vẫn còn ở đó với chiếc buồm màu trắng và
thân tàu to lớn đúng như kích thước khi tôi nhìn thấy nó đậu ở bến
cảng. Hiện giờ nó đang trên đường đi đến một nơi đã định trước. Kích
thước con tàu chỉ nhỏ dần đi trong mắt của tôi và cuối cùng đã biến
mất khỏi tầm nhìn hạn hẹp của tôi mà thôi. Rồi ít ngày sau, con tàu
đó sẽ tới một bến cảng mới. Tại nơi nó sắp cập bến lại vang lên
tiếng nói đầy vui mừng của những người đang chờ đón người thân: “Ồ
con tàu chúng ta chờ đợi đã đến rồi kìa !”. Con tàu đó chính là hình
ảnh cái chết của mỗi người chúng ta”.
2) CẢM NGHIỆM VỀ THẾ GIỚI ĐỜI SAU:
Từ
sau khi quả bom nguyên tử ném xuống thành phố Na-ga-sa-ki của Nhật Bản, bác sĩ
TA-KA-SHI NA-GAI (1908-1951) đã trở thành một nhân vật nổi tiếng nhờ
sự tận tâm và tấm lòng hy sinh cao cả phục vụ các nạn nhân bị nhiễm phóng xạ
nguyên tử của ông. Sau khi ông chết, người ta đã tìm thấy mấy dòng tâm sự ông để
lại, cho biết lý do tại sao từ một người vô thần ông đã trở thành một người tín
hữu có đức tin mạnh vào Thiên Chúa như sau:
“Trong kỳ nghỉ Xuân, lúc đó tôi học
hết năm thứ hai đại học y khoa, mẹ tôi bị trúng phong. Tôi hối hả chạy đến đầu
giường của mẹ tôi khi ấy chỉ còn một chút hơi thở. Mẹ tôi trừng trừng mở mắt
nhìn tôi thở hắt ra. Cái nhìn cuối cùng của cặp mắt bà mẹ đã sinh ra, đã
giáo dục và đã thương yêu tôi đến cùng. Cặp mắt này nói cho tôi một cách rõ ràng:
Sau khi chết, bà vẫn luôn ở bên tôi là Takashi yêu dấu của bà. Tôi nhìn vào trong
cặp mắt đó. Tôi, một con người vốn không tin có linh hồn, tự nhiên đã cảm thấy
linh hồn mẹ tôi đang có đó; linh hồn mẹ tôi khi chết đã lìa khỏi thân xác nhưng
vẫn tồn tại mãi mãi”. Rồi Na-gai viết thêm : ”Từ đó, con người của tôi đã thay đổi
hẳn: Dù tôi đã cố gắng hết sức nhưng cũng không thể khiến tôi tin rằng con người
mẹ tôi đã hoàn toàn bị tiêu diệt… Con mắt tôi lần đầu tiên đã mở ra và nhìn thấy
thế giới siêu hình”.
3) ÔNG VUA GIÀU
CÓ VÀ ANH HỀ NGU DỐT:
Có một ông vua kia rất giầu sang phú
quí. Ông sống như không cần biết đến tương lai. Ông cũng chẳng cần biết có cuộc
sống sau khi chết hay không. Trong hoàng cung có một anh hề chuyên giúp vui trong
các bữa tiệc. Theo nhà vua thì anh hề này có biệt tài giúp mang lại bầu khí vui
tươi cho khách dự tiệc. Nhưng anh ta lại là một người ngu đần. Một ngày kia nhà
vua cho gọi anh hề tới trao cho anh một cây thanh trượng và nói: "Ngươi
hãy đi tìm cho ra một người ngu đần hơn ngươi để trao cây gậy này cho nó, rồi
ta sẽ trọng thưởng cho ngươi." Chú hề nhận cây gậy và cố gắng đi tìm,
nhưng anh ta tìm mãi mà vẫn không thể tìm ra ai ngu đần hơn mình để trao cây gậy.
Thời gian qua mau và tuổi già cũng đến
vào lúc nhà vua không ngờ. Đến khi sức lực cạn kiệt, cảm thấy ngày gần đất xa
trời không còn xa, nhà vua liền cho gọi anh hề đến nói chuyện. Nhà vua đã tâm
sự với anh hề như sau:
- Trẫm sắp phải đi một chuyến đi
thật xa.
- Dạ thưa Đức Vua sắp đi đâu ạ?
- Ta cũng chẳng biết nữa.
- Dạ thưa đi rồi bao giờ Đức Vua trở
về?
- Không bao giờ , không bao giờ
con ạ.
Anh hề là một người ngu nhưng giờ
đây anh lại suy nghĩ rất chính xác. Anh nhẹ nhàng đặt cây gậy trước kia vua đã
trao, trao lại vào tay nhà vua, rồi im lặng ta về, lòng cảm thấy nhẹ nhàng vui
sướng vì đã hoàn thành nhiệm vụ. Giờ đây anh đã tìm ra một người ngu hơn mình. Đó
chính là ông vua trước kia tự hào thông minh hơn anh gấp vạn lần.
3. SUY NIỆM:
Thực
tế cho thấy con người ta ai cũng đều phải chết ! Chết là giai đoạn cuối cùng
trong bốn giai đoạn cuộc sống của mỗi người chúng ta là: Sinh- lão- bệnh- tử.
Nhưng chết là gì và sau khi chết chúng ta sẽ đi đâu ? Ta phải làm gì để được sống
lại trong cuộc sống vĩnh hằng đời sau ?
1)Chết là gì và chết rồi con người sẽ
đi đâu ?:
Chết
là khi linh hồn lìa ra khỏi xác. Hầu hết nhân loại đều tin: chết không phải là
đi vào cõi tiêu diệt, nhưng là trải qua một cuộc biến đổi từ cuộc sống vật chất
trần gian sang cuộc sống vĩnh cửu đời sau được diễn tả qua câu nói: ”Sinh ký tử
qui” - sống chỉ là ở tạm, chết mới là đi về. Nhưng đi về đâu ? Thưa là đi về với
cội nguồn, về cõi vĩnh hằng với Đấng đã tạo dựng nên mình.
Riêng
đối với các tín hữu là những người tin vào Đức Giê-su là Đấng Thiên Sai và đã đi
theo con đường “qua đau khổ vào trong vinh quang” của Người thì chết là trải
qua cuộc biến đổi với Đức Giê-su như lời thánh Phao-lô: “Nếu ta cùng chết với
Người, ta sẽ cùng sống với Người” (2 Tm 2,11). Thánh Au-gút-ti-nô cũng nói lên niềm
khát mong được nghỉ yên trong Chúa ở đời sau qua lời cầu nguyện: ”Lạy Chúa,
Chúa đã dựng nên con hướng về Chúa, nên tâm hồn con vẫn còn khắc khoải mãi đến
khi nào con được nghỉ yên trong Chúa”. Còn thánh nữ Tê-rê-sa Hài đồng Giê-su lúc
sắp chết cũng đã nói với các chị em đang đứng chung quanh về niềm tin của mình
vào cuộc sống vĩnh hằng như sau: ”Em không chết đâu, em sắp đi vào cõi sống”.
2)Hai lập trường đối lập về mầu nhiệm
kẻ chết sống lại:
-Trong
thời Đức Giê-su, các người Biệt phái (Pha-ri-sêu) tin rằng: ngoài cuộc sống đời
này còn một cuộc sống vĩnh hằng ở đời sau. Còn phái Xa-đốc gồm các tư tế Đền thờ
lại không tin có cuộc sống đời sau như vậy. Do đó khi nghe Đức Giê-su giảng về
sự kẻ chết sống lại, họ đã phi bác lại bằng việc đặt ra một câu chuyện giả tưởng
không có thực như sau: Nhà kia có bảy anh em trai, người thứ nhất lấy vợ rồi chết
mà không có con. Theo luật “Thế huynh” của Mô-sê, người thứ hai phải lấy người
vợ góa đó, nhưng rồi người này cũng chết không con. Tới người thứ ba, tư, năm,
sáu, bảy đều lần lượt lấy người vợ góa đó và cũng đều chết mà không để lại một
người con nào. Vậy nếu có sự sống lại thì người đàn bà ấy sẽ là vợ của ai trong
bảy anh em ? Mục đích của phái Xa-đốc khi đưa ra câu chuyện này là để chứng
minh niềm tin vào sự sống lại là vô lý. Vì nếu còn có cuộc sống đời sau như vậy
thì chẳng lẽ người đàn bà ấy lại là vợ của cả bảy anh em nhà đó hay sao ?
-Để
trả lời, trước hết Đức Giê-su cho biết tình trạng người ta sau khi sống lại sẽ không
cưới vợ lấy chồng. Cuộc sống của họ sẽ hoàn toàn thanh khiết như "các
thiên thần". Họ sẽ trở thành "con cái của Thiên Chúa" (Lc
20,34-36). Tiếp đến Đức Giê-su xác nhận sự kẻ chết sống lại là điều chắc chắn vì
dựa trên Lời Thánh Kinh: Khi hiện ra với ông Mô-sê trong bụi gai cháy mãi không
tàn, Đức Chúa đã tự xưng mình như sau: “Ta là Chúa của tổ phụ Áp-ra-ham, I-sa-ác
và Gia-cóp” (Xh 3,6). Câu này hàm ý Thiên Chúa là Đấng hằng sống và điều khiển
thế giới người sống. Các tổ phụ dân Do Thái dù đã chết nhưng linh hồn các ngài vẫn
đang sống và thân xác các ngài sau này cũng sẽ sống lại.
3) Niềm tin của người tín hữu về
cuộc sống đời sau:
Khi đọc kinh Tin kính, các tín hữu
tuyên xưng đức tin vào mầu nhiệm này như sau: ”Tôi tin xác loài người ngày sau
sống lại”. Thánh Phao-lô cũng đã khẳng định về một cuộc sống mới trong Đức
Ki-tô: ”Nếu chúng ta đặt hy vọng vào Đức Ki-tô chỉ vì đời này mà thôi, thì
chúng ta là những kẻ đáng thương hơn hết mọi người. Nhưng không phải thế ! Đức
Ki-tô đã trỗi dậy từ cõi chết, mở đường cho những ai đã an giấc ngàn thu” (1 Cr
15,19-20). Cuộc sống của chúng ta nơi trần
gian là cuộc hành trình về quê trời. Cuộc sống ấy sẽ ra sao tùy thuộc vào cuộc
sống hiện tại của chúng ta trên trần gian theo nguyên tắc : “gieo giống nào thì
sẽ gặt giống ấy”.
4) Thể hiện đức tin vào mầu nhiệm
này thế nào?:
- Một là không nên sợ chết: Những người không có đức tin sẽ rất sợ chết vì cho rằng
chết đi là hết. Nếu người tín hữu sợ chết là tự mâu thuẫn với niềm tin của mình
về một cuộc sống vĩnh hằng sau khi chết. Sách Công Vụ Tông Đồ đã thuật lại về
cái chết anh dũng của Phó tế Tê-pha-nô tử đạo như sau: “Được đầy ơn Thánh Thần,
ông đăm đăm nhìn trời thấy vinh quang Thiên Chúa, và thấy Đức Giê-su đứng bên hữu
Thiên Chúa. Ông nói: “Kìa, tôi thấy trời mở ra, và Con Người đứng bên hữu Thiên
Chúa” (Cv 7,55-56).
- Hai là phải chuẩn bị cho cuộc sống
mai hậu: Nếu một người chỉ lo kiếm tiền rồi
lại tim cách hưởng thụ các nhu cầu vật chất thể xác thì sẽ chỉ gặt hái được thứ
hạnh phúc bọt bèo chóng qua. Muốn đạt được hạnh phúc lâu dài cần phải có đức
tin và sống phù hợp với đức tin ấy như câu ngạn ngữ tây phương sau đây:
“Nếu
bạn muốn được hưởng hạnh phúc một ngày, hãy mua một một bộ quần áo mới.
Nếu
bạn muốn được hưởng hạnh phúc một tuần, hãy giết thịt một con heo.
Nếu
bạn muốn được hưởng hạnh phúc một năm, hãy lập gia đình với người mình yêu.
Nếu
bạn muốn được hưởng hạnh phúc một đời, hãy sống một cuộc sống lương thiện.
Nếu
bạn muốn được hưởng hạnh phúc muôn đời, hãy sống như một tín hữu tốt lành”.
Người
tín hữu tốt sẽ luôn sống giới răn mến Chúa yêu người theo lời Chúa dạy trong
“Tám Mối Phúc Thật” (x. Mt 5,3-12). Thánh Phao-lô cũng cho biết có sự thưởng phạt
người lành kẻ dữ trong ngày tận thế: ”Ngày đó Thiên Chúa sẽ thưởng phạt mỗi người
tùy theo việc họ đã làm” (Rm 2,6).
- Ba là năng cầu nguyện cho các
người thân qua đời: Hằng
năm, Hội thánh dành riêng tháng Mười Một để khuyến khích các tín hữu
cầu nguyện cho ông bà cha mẹ đã qua đời. Đây cũng là cơ hội giúp
chúng ta suy nghĩ về bốn sự sau là: sự chết, sự phán xét, thiên
đàng và hỏa ngục. Chính sự chết dạy cho chúng ta biết phải sống như
thế nào. Niềm tin vào Thiên đàng hay hỏa ngục sẽ giúp chúng ta tránh những
đam mê hạnh phúc giả tạo đời này và động viên chúng ta can đảm chịu
đựng những đau khổ gặp phải để đền tội và đi con đường “Qua đau khổ vào
trong vinh quang” để về quê trời đời sau. Trong tháng này, khi làm các việc
lành cầu cho các linh hồn là chúng ta thể hiện niềm tin vào mầu nhiệm kẻ chết sống
lại và cuộc sống vĩnh hằng đời sau.
4. THẢO LUẬN: Ngày nay nhiều
người chỉ biết đi tìm thứ hạnh phúc bọt bèo chóng qua trong những
thú vui nhục dục và những đam mê bất chính. Bạn sẽ làm gì để hồi
tâm sám hối và quyết tâm sống cuộc đời bác ái yêu thương để tuyên xưng đức
tin vào cuộc sống vĩnh hằng đời sau?
5. NGUYỆN CẦU:
-
LẠY CHÚA GIÊ-SU. Khi đọc kinh Tin kính, tuy miệng con tuyên xưng mầu
nhiệm kẻ chết sống lại và tin có sự sống đời sau, nhưng trong thực
hành, con lại thường lỗi đức công bình khi có cơ hội, gây ra bao thiệt
hại về vật chất cũng như tinh thần cho tha nhân, mà không nghĩ đến
việc con sẽ phải đền trả khi ra trước tòa Chúa phán xét sau này.
Dường như đức tin của con mới chỉ là thứ đức tin lý thuyết và không
đủ mạnh để ngăn cản con khỏi sống ích kỷ và tội lỗi. Trong Tin mừng
hôm nay, Chính Chúa đã khẳng định rằng: Thân xác lòai người sau này
sẽ sống lại. Khi ấy người ta sẽ không còn cưới vợ lấy chồng, không
còn bon chen kiếm sống như ở trần gian, nhưng mọi người sẽ trở nên
giống như các thiên thần của Thiên Chúa và được sống hạnh phúc muôn
đời.
-
LẠY CHÚA, con muốn rằng: ngay từ bây giờ con sẽ thuộc trọn về Chúa.
Con xin dâng lên Chúa tất cả tâm tư, cùng những niềm vui nỗi buồn và
những ước vọng của con. Xin Chúa thương nhận và ban xuống dồi dào
hồng ân cứu độ cho con. Xin cho con luôn phó thác cuộc sống trong tay
Chúa và sẵn sàng đón nhận mọi thử thách, với niềm tin rằng chúng
đều hữu ích cho phần rỗi đời đời của con.
X)
HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON
LM ĐAN VINH - HHTM