CN 11 TN C - LỄ CHÚA BA NGÔI
Cn 8,22-31; Rm 5,1-5; Ga 16,12-15
MẦU NHIỆM TÌNH YÊU HIỆP THÔNG CHIA SẺ
VÀ CỨU ĐỘ
I. HỌC LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG : Ga 16,12-15
(12) “Thầy còn nhiều điều phải
nói với anh em. Nhưng bây giờ, anh em không có sức chịu nổi. (13) Khi
nào Thần Khí sự thật đến, Người sẽ dẫn anh em tới sự thật toàn
vẹn. Người sẽ không tự mình nói điều gì, nhưng tất cả những gì
Người nghe, Người sẽ nói lại, và loan báo cho anh em biết những điều
sẽ xảy đến”. (14) Người sẽ tôn vinh Thầy, vì Người sẽ lấy những gì
của Thầy mà loan báo cho anh em. (15) Mọi sự Chúa Cha có đều là của
Thầy. Vì thế, Thầy đã nói
: Người lấy
những gì của Thầy mà loan báo cho anh em”.
2. Ý CHÍNH :
Bài Tin mừng của thánh Gio-an hôm nay trích từ bài
diễn từ giã biệt, trong đó, Đức Giê-su trăn trối tất cả những chân
lý mặc khải cho các môn đệ, trước khi bước vào cuộc Khổ Nạn. Như
một ông Thầy hiểu biết mức độ lãnh hội giới hạn của các môn đệ,
Đức Giê-su đã hứa ban Thần Khí Sự Thật đến để soi sáng cho các ông
và dẫn đưa các ông đến sự thật toàn vẹn. Thần Khí Sự Thật đó
chính là Chúa Thánh Thần.
3. CHÚ THÍCH :
-C 12-13 : + Thầy còn nhiều điều phải nói với anh em.
Nhưng bây giờ, anh em không có sức chịu nổi : Chân lý đức tin đã được Đức Giê-su mặc khải, nhưng
các môn đệ lại chưa có khả năng lãnh hội được, vì các ông chịu ảnh
hưởng nặng nề của quan niệm về một Đấng Thiên Sai trần tục của dân
Do thái thời bấy giờ. + Khi nào Thần Khí Sự Thật đến. Người
sẽ dẫn anh em tới sự thật toàn vẹn : Vào lễ Ngũ Tuần, nhờ Chúa Thánh Thần tác động
nên các ông đã hiểu biết toàn vẹn các mầu nhiệm của Thiên Chúa. Vai
trò của Chúa Thánh Thần là hướng dẫn, soi lòng mở trí các môn đệ
nhận biết sự thật. + Tất cả những gì Người nghe, Người sẽ nói
lại, và loan báo cho anh em những điều sẽ xảy đến : Thánh Thần không nói những gì khác với Đức Giê-su.
Do đó, tất cả những điều người ta nghĩ về Thiên Chúa mà khác với
lời dạy của Đức Giê-su như các Tông đồ rao giảng, thì đều sai lầm. ư
Tin mừng của Gio-an có đọan viết như sau : “Lề luật đã được Thiên Chúa ban qua ông Mô sê, còn ân sủng và sự
thật thì nhờ Đức Giê-su Ki-tô mà có... Không ai thấy được Thiên Chúa
bao giờ. Nhưng con Một là Thiên Chúa, và là Đấng hằng ở nơi cung lòng
Chúa Cha, chính Người đã tỏ cho chúng ta biết” (Ga 1,14.17-18).
-C 14-15
: + Mọi sự
Chúa Cha có đều là của Thầy : Mọi sự đều bắt nguồn từ Chúa Cha, thể hiện nơi
Chúa Con và hoàn tất trong Chúa Thánh Thần, để tôn vinh Ba Ngôi Thiên
Chúa. + Người lấy những gì của Thầy mà loan báo cho anh em : Ngày nay Chúa Thánh Thần tiếp tục soi lòng các
Đức Giáo hoàng kế vị Tông đồ Phê-rô và các Giám mục kế vị các Tông
đồ khác khi họp Công Đồng Chung. Do đó, giáo huấn của các ngài về
đức tin và luân lý đều được Thánh Thần soi dẫn hợp với Lời dạy của
Chúa Giê-su, nên tuyệt đối không sai lầm được.
4. CÂU HỎI :
1) Tại sao các môn đệ lại không
thể hiểu hết những Lời Đức Giê-su rao giảng trong thời gian Người
giảng đạo ? 2) Chúa Thánh Thần có vai trò thế nào trong chương trình
cứu độ của Thiên Chúa, đặc biệt đối với các môn đệ của Đức Giê-su ?
3) Giáo huấn của các Đức Giáo Hòang và của các Công Đồng chung về
đức tin và luân lý có thể sai lầm không ? Tại sao ?
II.SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA : “Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn
đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh
Thần” (Mt 28,19).
2. CÂU CHUYỆN :
1) TÌNH THƯƠNG CỦA MẸ DIỄN
TẢ TÌNH YÊU CỦA THIÊN CHÚA : “Tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả” (1 Cr
13,7) :
Trong phòng xử án Toà án nhân dân Thành phố Hồ chí Minh
sáng ngày 16-8-1996, ngay ở hàng ghế đầu, suốt những giờ xét xử của Hội đồng xử
án, một người đàn bà với đôi mắt ướt đẫm nước mắt, cứ nhìn đăm đăm vào chiếc
lưng của bị cáo đang đứng trước vành móng ngựa. Đó là chiếc lưng của đứa con đầu
lòng của bà trong chiếc áo tù, và có in ký hiệu "AB". Cho đến khi
công tố viên đọc xong lời buộc tội và đề nghị mức án "hai mươi năm tù vì tội
giết người" bà bỗng nấc lên một tiếng rồi ngất xỉu. Bà ngất xỉu có lẽ vì
bà không chịu đựng nổi mức án dành cho con bà: 20 năm tù vì cái tội
giết người; mà người nó định giết không ai khác hơn là chính bà. Bà là mẹ của bị
cáo và cũng chính là người bị hại!
Hơn một năm trước đây, vào ngày 16 tháng 7, 1995, chính
nó đã cầm một thanh gỗ tròn dài nửa mét đánh vào đầu bà, rồi cầm một con dao
đâm vào ngực bà. Người đầm đìa máu bà ngã xuống ngất xỉu - vì con. Hôm nay bà lại
ngã xuống, ngất xỉu... cũng vì con. Con bà - Lương Quốc Tuấn, sinh năm 1976, ở
quận 11, làm thợ cửa sắt. Từ khi lên 5 tuổi, cha của Tuấn đã bỏ mẹ con Tuấn đi
sống với người khác. Mẹ của Tuấn lặn lội nuôi hai đứa con thơ lớn lên. Thế
mà... Sáng hôm đó, chúa nhật, Tuấn dậy trễ. Tuấn hỏi xin mẹ mấy ngàn ăn hủ tiếu.
Mẹ Tuấn không cho, bảo lấy mì ăn liền nấu ăn. Tuấn khai trước toà: "Mẹ nói
từ ngày quen con nhỏ đó thân ốm nhom ốm nhách, không tiền không bạc... mẹ không
cho tiền còn nói nọ nói kia..." Thế là Tuấn đã làm cái điều mà có lẽ nghe
đến, ai cũng thấy rợn cả người: đánh, giết mẹ! Với 10 vết thương, chỉ có hai vết
ở tay, còn lại toàn ở đầu và ngực nhưng khi từ bệnh viện sau sáu ngày điều trị
trở về, bà lại ráng sức để xách đồ ăn vào thăm con đang bị giam trong tù ! Sợ con bị đưa ra toà, bà đã viết giấy bãi nại xin xóa tội
cho con. Và trước toà, bà cứ khóc nói :
"Từ nhỏ đến khi lớn nó ngoan lắm. Nó không uống rượu, không hút thuốc, xin
toà giảm tội !" Rồi bà nức nở tỏ ra ray rứt, ân hận, trách mình : "Tôi không nuôi nó ăn học đến nơi đến chốn. Nó phải
đi làm sớm, lúc học xong lớp 8." Hoàn toàn bà không hề nhắc gì đến cái tội
tày trời mà đứa con của mình đã mắc phải.
Bên trong phòng xử án, khi bà tỉnh lại, phóng viên đến
xin hỏi chuyện bà, bà lại khóc nói :
"Tôi không nói được gì đâu, đau đớn quá." Khi có các phóng viên đến
chụp ảnh con bà đang một tay bị còng vào ghế, bà van nài : "Xin đừng chụp ảnh con tôi..." Khi những người
công an còng hai tay con bà giải đi, bà đã lao người với theo, bà ngã trong
vòng tay của người quen. Lúc ấy phóng viên nhìn thấy rất rõ một vết thẹo trên
trán của bà. Vết thẹo do chính tay con bà đã cầm một thanh gỗ đập vào để lại...
(Tuổi Trẻ 17-8-1996).
2) CON NGƯỜI KHÔNG THỂ PHỦ NHẬN SỰ HIỆN HỮU CỦA THIÊN CHÚA :
VÔN-TE là người đã công khai bỏ đạo và hoàn toàn không
tin vào Thiên Chúa và còn luôn chế diễu niềm tin của các Kitô hữu. Một hôm ông đi
bách bộ với một người bạn thân có đức tin sâu sắc, trên một đường quê ở ven rừng.
Giữa giao lộ có một cây Thánh giá phủ đầy tuyết trắng xóa. Bấy giờ VÔN-TE chỉ
vào cây Thánh giá phủ đầy tuyết và nói với anh bạn : “Đây là hình ảnh của tôn giáo ngày nay. Thiên Chúa của
các anh đã bị văn minh khoa học phủ kín mặt mày và niềm tin tôn giáo đã bị sự lạnh
lùng băng giá của con người hôm nay che lấp. Vì vậy, Thiên Chúa của các anh
không còn lý do tồn tại nữa”. Chợt lúc đó, một cơn gió mạnh thổi đến hất tung
chiếc mũ trên đầu VÔN-TE xuống đất, đồng thời cơn gió cũng làm tan chảy lớp tuyết
bao phủ cây Thánh giá khiến gương mặt
Chúa Giê-su trên cây Thánh giá từ từ hiện ra rõ nét. Người bạn của
VÔN-TE lúc đó mới nói : ”Này anh bạn, đây mới là hình ảnh
đích thực của niềm tin tôn giáo hôm nay. Cho dù con người vẫn lạnh lùng và chai
cứng như lớp tuyết trắng che kín Thánh giá, nhưng sức mạnh của Thiên Chúa vẫn
dư sức hất tung sự kiêu ngạo của con người và làm tan chảy sự lạnh lùng nơi con
tim sỏi đá của con người. Ngài luôn hiện hữu cho dù con người có ra sức loại trừ
Ngài”.
3) CHÍNH TÔI ĐÃ GẶP THẤY NGƯỜi :
Hồi ấy AN-RÊ PHỐT-SA (André Foissard) là một sinh
viên thuộc một gia đình vô tín ngưỡng. Thân phụ ông là người vô thần,
cố tình để trên bàn học của con các sách báo có nội dung bài bác
đạo Công giáo để con cũng đi theo sự vô tín của mình. Nhưng dù sống
trong môi trường vô tín như thế, Phốt-sa vẫn đạt tới đức tin nhờ ơn
Chúa Thánh Thần. Một hôm, anh đi vào nhà thờ Đức Bà ở Pa-ri để tìm
một người bạn. Cặp mắt của anh tình cờ nhìn thấy tượng Chúa Giê su
đang chịu đóng đanh trên cây thập giá. Lập tức anh đã cảm nghiệm được
sự hiện diện của Chúa. Anh đến đứng dưới chân cây thập giá ấy một
hồi lâu và những giọt nứơc mắt cứ tự nhiện lăn dài trên má. Bấy
giờ anh cảm thấy mình như một đứa con đã đi lạc trong một thời gian
dài, nay mới vừa tìm thấy người cha thân yêu
của mình. Sau này anh đã thuật lại biến cố ấy trong một tác phẩm
thời danh là “Quả thật có Thiên Chúa. Chính tôi đã gặp Ngài”.
4) TÌNH THƯƠNG HY SINH CHẾT THAY CHO NGƯỜI KHÔNG QUEN BIẾT :
Cha thánh MA-XI-MI-LIÊN KÔN-BÊ (Maximilien Kolbe) thụ
phong linh mục năm 1918. Cha bị Đức Quốc Xã bắt ngày 17.2.1941 và bị giam tại
trại tập trung Ô-sơ-vích (Auschwitz). Đây là một nhà tù hãi hùng nhất bao gồm mọi
hình phạt và kỷ luật sắt ghê gớm, độc ác dành cho các tù nhân. Mỗi tù nhân
không còn được mang tên mình, thay vào đó là những con số. Cha Kôn-bê mang số
tù binh là 16.670. Tại nhà tù này, Đức quốc xã đưa ra một quy định hết sức khắc
nghiệt: Nếu có một tù nhân trốn trại, thì mười người khác phải chết thay. Rất
nhiều tù nhân là nạn nhân của thứ luật rừng này trong đó có cha Ma-xi-mi-lien Kôn-bê.
Đó là một ngày trong tháng 8.1941, một người tù đã vượt
ngục thành công. Thế là mười người khác bị chỉ định chịu chết thay cho anh ta.
Trong số mười người này có anh lính Ga-giô-ních-giéc (Gajowniczek). Anh kêu
khóc thảm thiết khi nghe đọc tên mình trong số người bị chết, vì anh còn mẹ
già, vợ con đang chờ mong anh về. Trước thảm cảnh đó, vì lòng mến Chúa yêu người,
Cha Kôn-bê đã đứng ra xin được chết thế cho anh lính tội nghiệp kia. Được chấp
nhận, Cha cùng đoàn tử tù anh dũng bước vào phòng hơi ngạt số 14. Hôm sau, người
ta mở cửa phòng để lôi xác ra ngoài, nhưng Cha Ma-xi-mi-lien Kôn-bê vẫn còn
thoi thóp thở, người ta chích cho Cha một mũi thuốc ân huệ. Cha tắt thở đúng
vào chiều ngày áp lễ Đức Mẹ hồn xác lên trời 14.8.1941.
Trong thánh lễ phong chân phước Ma-xi-mi-lien Kôn-bê lên
bậc hiển thánh, có một cụ già được đứng trong đoàn người lên dâng lễ vật. Ông
đã Đức Thánh Cha Phaolô VI chủ tế ôm hôn. Đây chính là người tử tù được cha
thánh chết thay. Trong giây phút trang trọng ấy, toàn thể cộng đoàn đã sốt sắng
hát khúc tình ca : “không có tình yêu nào trọng đại cho bằng chết vì yêu”.
Đây là một chứng tích tình yêu cao vời khiến mọi người hiện diện đều rất xúc động
và rơi nước mắt. Tình yêu hiến thân chịu chết thay cho tha nhân đã diễn tả chính
tình yêu tột đỉnh của Thiên Chúa Ba Ngôi như lời Chúa Giê-su phán : “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của
người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15,13).
3. THẢO LUẬN :
1) Chúa Cha là Đấng sáng tạo,
Chúa Con là Đấng cứu chuộc, Chúa Thánh Thần là Đấng thánh hóa. Vậy
mỗi tín hữu phải có bổn phận thế nào đối với Chúa Ba Ngôi ?
2) “Thiên Chúa là Tình Yêu”. Vậy
bạn cần sống tinh thần hiệp thông, chia sẻ yêu thương nơi gia đình,
đoàn thể và trong xứ đạo của bạn thế nào để nên giống như tình yêu
giữa Ba Ngôi Thiên Chúa ?
4. SUY NIỆM :
1) NHẬN BIẾT MỘT THIÊN CHÚA DUY NHẤT : Với trí khôn suy luận theo nguyên lý nhân quả,
người ta có thể biết có Đấng Tạo Hóa. Nhờ Mô-sê trong Cựu Ước, dân Do
thái đã nhận biết Thiên Chúa là Đấng Tự hữu và là Đấng duy nhất (x. Xh 20,2-3).
Nhưng đến thời Tân Ước, nhờ Chúa Giê-su là Con Thiên Chúa làm người, mà loài
người chúng ta còn biết Thiên Chúa có Ba Ngôi là Chúa Cha, Chúa Con và Chúa
Thánh Thần. Chúa Cha yêu Chúa Con từ trước muôn đời và đã sai Chúa
Con xuống trần gian làm Đấng Thiên Sai. Chúa Thánh Thần là Tình Yêu
giữa Chúa Cha và Chúa con và là Đấng được Chúa Cha cử xuống với Hội Thánh
để giúp Hội Thánh tiếp tục sứ mạng của Chúa Giê-su
trao phó là rao giảng Tin Mừng, làm chứng cho Chúa Giê-su hầu góp phần cứu độ trần gian.
2) HỘI THÁNH NHẬN BIẾT THIÊN CHÚA BA
NGÔI NHỜ CHÚA GIÊ-SU :
+ Trong cuộc
Thần hiện tại sông Giođan : “Khi Đức Giê-su chịu phép rửa xong, vừa ở dưới
nước lên, thì kìa các tầng trời mở ra. Người thấy Thần Khi Chúa đáp xuống như chim bồ câu và ngự
xuống trên Người. Và có tiếng từ trời phán : “Đây là Con yêu dấu của Ta. Ta hài lòng về Người” (Mt 3,16-17).
+ Khi nói
chuyện với ông Ni-cô-đê-mô : “Quả vậy, Đấng được Thiên Chúa
sai đi, thì nói những Lời của Thiên Chúa, vì Thiên Chúa ban Thần Khí
cho người vô ngần vô hạn. Chúa Cha
yêu thương Con và đã giao mọi sự trong tay Người. Ai tin vào Con thì
được sống đời đời” (Ga 3,34-36a).
+ Khi trao sứ
vụ truyền giáo cho các môn đệ trước khi lên trời : “Vậy anh em hãy đi và làm cho
muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần” (Mt 28,19).
+ Trong bài
giảng của Phê-rô vào lễ Ngũ Tuần : “Thiên Chúa Cha
đã ra tay uy quyền nâng Người lên, trao cho Người Thánh Thần đã hứa,
để Người đổ xuống: Đó là điều anh em đang thấy và đang nghe” (Cv
2,33).
+ Trong lời cầu chúc cho
các tín hữu của tông đồ Phao-lô : “Cầu chúc toàn thể anh em được tràn đầy ân sủng của Chúa Giê-su Ki-tô, đầy tình thương của
Thiên Chúa, và ơn hiệp thông của Thánh Thần. A-men” (2 Cr 13,13).
“Để chứng thực anh em là con cái, Thiên
Chúa đã sai Thần Khí của Con mình đến ngự trong lòng anh em...
Trong Người, cả anh em nữa, cũng được xây dựng cùng với những người
khác, làm ngôi nhà Thiên Chúa” (Ep 2,18.22).
3) ĐẶC ĐIỂM MẦU NHIỆM TÌNH YÊU CỦA CHÚA BA NGÔI :
+ Ba Ngôi liên kết với nhau trong một
tình yêu hiệp nhất trọn vẹn : Tình yêu đó khiến cho Ba Ngôi khác nhau nhưng hiệp nhất
trong một bản thể duy nhất và một uy quyền ngang nhau như Đức Giê-su đã khẳng định : “Tôi và Chúa Cha là một” (Ga 10,30) ; “Để tất cả nên một,
như lạy Cha : Cha ở trong Con và Con ở trong Cha. Để họ cũng ở trong
chúng ta” (Ga 17,21). Chúa Cha và Chúa Con luôn hiệp nhất nên
một trong tư tưởng và trong hành động, nên Đức Giê-su đã luôn vâng lời Cha và làm
theo thánh ý Chúa Cha : “Nếu anh em giữ các điều răn của
Thầy, anh em sẽ ở lại trong tình thương của Thầy, như Thầy đã giữ các điều răn
của Cha Thầy và ở lại trong tình thương của Người” (Ga 15,10). Và Đức Chúa
Thánh Thần cũng không làm gì ngoài ý muốn của Chúa Giê-su như lời Người phán trong Tin Mừng hôm nay : “Mọi sự Chúa Cha có đều là của Thầy. Vì thế, Thầy đã
nói : Người (Chúa Thánh Thần) sẽ lấy những gì của Thầy mà
loan báo cho anh em” (Ga 16,15). Sự hiệp thông giữa Ba Ngôi trọn vẹn đến nỗi một
Ngôi biểu hiện cho cả Ba Ngôi, như Chúa Giê-su đã cho biết : “Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha” (Ga 14,9). Ngày nay Hội
Thánh tôn thờ Chúa Cha qua hình ảnh Con Thiên Chúa nhập thể làm người là Chúa Giê-su,
Đấng đã đi giảng đạo và sau cùng đã chịu nạn chịu chết trên cây thập giá để chuộc
tội cho loài người, đã được an táng trong mồ, rồi ngày thứ ba đã từ cõi chết sống
lại vinh quang.
+ Ba Ngôi Thiên Chúa liên kết với nhau trong một
tình yêu trao ban : Chúa Cha có gì thì ban cho Chúa Con tất cả : “Mọi sự Chúa Cha có đều là của Thầy”. Chúa Cha ban cho
Chúa Con chính mình nên Chúa Con là hình ảnh hoàn hảo của Chúa Cha. Đến nỗi ai
thấy Chúa Con là thấy Chúa Cha (x. Ga 14,9). Ngược lại, nhận được gì thì Chúa
Con dâng lại cho Chúa Cha: Dâng bản thân, ý muốn, và ngay cả mạng sống của mình.
Khi hấp hối trong vườn Giệt-si-ma-ni, Chúa Giê-su tuy sợ phải chịu chết theo ý Chúa Cha
nhưng sẵn sàng vâng theo ý Chúa Cha qua lời cầu
nguyện : “Áp ba, Cha ơi !
Cha làm được mọi sự, xin cất chén này xa con. Nhưng xin đừng làm điều con muốn,
mà làm điều Cha muốn” (Mc 14,36). Quả thật tình yêu của Ba Ngôi Thiên Chúa là một
tình yêu dâng hiến đến nỗi không giữ lại điều gì cho mình, mà sẵn sàng cho đi tất
cả.
+ Ba Ngôi Thiên Chúa liên kết trong một tình
yêu cứu độ : Tình yêu nơi Ba Ngôi Thiên Chúa sung mãn tuôn đổ xuống
muôn loài: Chúa Cha tác
sinh để làm cho muôn loài được sống, rồi khi loài người phạm tội lẽ
ra phải chết, Chúa Cha đã sai Chúa Con nhập thể làm người là Chúa Giê-su. Chúa
Giê-su được Thánh Thần hướng dẫn đi công bố Tin mừng Nước Trời và chấp nhận con
đường “Qua đau khổ vào vinh quang” theo thánh ý Chúa Cha để cứu độ loài người.
Từ đây ai muốn được hưởng ơn cứu độ của Thiên Chúa ban cần tin theo làm môn đệ Chúa
Giê-su và được thánh hoá nhờ ơn Thánh Thần ban qua lãnh nhận các phép bí tích
do Hội Thánh cử hành.
4) SỐNG MẦU NHIỆM CHÚA BA NGÔI GIỮA ĐỜI THƯỜNG :
+ Tuyên xưng đức
tin bằng làm dấu thánh giá: Mỗi ngày, khi làm dấu Thánh
giá là chúng ta tuyên xưng đức tin về mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi là : Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Làm dấu Thánh giá là ta ghi dấu của Ba Ngôi trên thân thể và
trên mọi hoạt động của ta. Do đó ta cần làm mọi việc cách nghiêm
túc đẹp lòng Thiên Chúa.
+ Kết hiệp với Chúa Ba Ngôi bằng lối sống yêu thương : Mừng lễ Chúa Ba Ngôi, chúng ta
luôn ý thức sự hiện diện của Ba Ngôi nơi chúng ta để kết hiệp mật thiết
với Ngài, bằng việc biểu lộ lòng mến Chúa qua việc tuân giữ giới răn yêu thương
như Đức Giê-su dạy : “Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ
Lời Thầy. Cha của Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha của Thầy và Thầy
sẽ đến và ở lại với người ấy” (Ga 14,23).
+ Lắng nghe Chúa phán dạy qua Thánh Kinh và tiếng lương tâm : Ngày nay, Thiên Chúa siêu việt
vẫn luôn ở với chúng ta để nhắc nhở chúng ta làm lành lánh dữ qua Lời dạy của Chúa trong Sách Thánh và trong tiếng lương tâm. Hãy giữ sự thinh
lặng nội tâm để có thể nghe được tiếng Người. Hãy
biết quảng đại chia sẻ tình thương của Người với tha nhân, nhất là giúp đỡ phục
vụ Chúa đang hiện thân qua những người nghèo hèn,
yếu đuối, bất hạnh và bị bỏ rơi.
+ Xây
dựng Cộng đoàn thống nhất trong đa dạng : Như “Thiên Chúa là Một theo Bản Tính, là Ba theo
Ngôi Vị”, Hội thánh cũng phải vừa thống nhất vừa đa dạng. Hội thánh
có mười hai Tông đồ, bốn sách Tin mừng, hai kinh Lạy Cha... Tuy nhiên,
để sự thống nhất mà không trở nên khép kín nghèo nàn, để sự đa
dạng không biến thành cớ gây chia rẽ, thì
cần phải có sự hiệp thông sâu xa giữa mọi thành phần trong Hội
thánh. Đời sống của Ba Ngôi là mẫu mực cho mọi tổ chức của loài
người. Hãy thống nhất trong những điều chính yếu, nhưng chấp nhận sự đa dạng
trong những điều tùy phụ.
5. NGUYỆN CẦU :
LẠY CHÚA BA NGÔI CỰC THÁNH. Chúa là mẫu mực của
một tình yêu tinh tuyền. Xin cho các tín hữu chúng con trở nên dấu
chỉ sự hiện diện của Chúa giữa lòng xã hội hôm nay. Xin dạy chúng
con biết yêu người như Chúa đã yêu con, biết sống với và sống
cho tha nhân, biết quảng đại cho đi và khiêm nhường nhận lãnh. Lạy
Ba Ngôi chí thánh. Xin cho chúng con luôn vững tin vào sự hiện diện
quyền năng của Chúa trong chúng con và trong những người nghèo
hèn đau khổ đang cần sự trợ giúp của chúng con.-
AMEN.
LM ĐAN VINH-HHTM