CHÚA NHẬT 4 THƯỜNG NIÊN
Những vị ngôn sứ bất khuất
Lắng nghe sứ điệp Lời Chúa (Gr 1:4-5, 17-19; 1 Cr 12:31 – 13:13; Lc 4:21-30)
Sau vài
tuần lễ giới thiệu Chúa Giê-su khởi đầu sứ vụ rao giảng Tin Mừng, Phụng vụ Lời
Chúa mời gọi chúng ta bước theo Chúa đi tới bất cứ nơi nào Người đi, để lắng
nghe lời giảng của Người và suy nghĩ về những phép lạ Người làm. Hôm nay Lời Chúa trình bày cho chúng ta hai
gương mẫu ngôn sứ, một vị trong Cựu Ước là Giê-rê-mi-a và một vị trong Tân Ước
là Chúa Giê-su. Cả hai vị đều đã thi
hành sứ vụ, nhưng đồng thời phải đối phó với sự chống đối và bách hại do những
kẻ các ngài được sai đến với họ. Tuy
nhiên các ngài đều can đảm và trung thành trong sứ vụ, vì có Thiên Chúa luôn
bênh đỡ và bảo vệ các ngài. Tinh thần bất
khuất trước khó khăn và chống đối là điểm nổi bật của các ngài. Nhờ bí tích Rửa Tội, tất cả chúng ta được
chia sẻ sứ vụ ngôn sứ của Chúa Giê-su, nên cũng như Người, chúng ta sẽ được
Chúa Cha phù hộ nếu chúng ta đi theo con đường trổi vượt hơn cả là đức mến, con
đường thánh Phao-lô đã đi khi ngài rao giảng Tin Mừng cho anh chị em dân ngoại.
1. Giê-rê-mi-a là vị ngôn sứ bất khuất thời Cựu
Ước vì ông là “con người của Lời Chúa”.
Giê-rê-mi-a chào đời khoảng năm 650 trước công nguyên và được Thiên Chúa
gọi làm ngôn sứ năm 626 khi mới được hai mươi bốn tuổi. Năm 621 sau khi người ta tìm thấy “Sách luật”
tại đền thờ Giê-ru-sa-lem, vua Giô-si-gia-hu phát động phong trào cải cách tôn
giáo và chấn hưng đất nước, ngôn sứ Giê-rê-mi-a tích cực cộng tác vào công cuộc
cải tổ này. Mặc dù Giê-rê-mi-a bị lôi cuốn
vào tình hình chính trị trong thái độ đối phó với đế quốc Ba-by-lon, ông vẫn
luôn là “con người của Lời Chúa”. Lý tưởng
sống của Giê-rê-mi-a là để cho Lời Chúa điều khiển mình. Là con người dịu dàng nhạy cảm, nhưng ông lại
được Chúa kêu gọi “để nhổ, để lật, để hủy, để phá, để xây, để trồng” (1:10). Dù yêu quê hương, nhưng ông cứ phải cổ võ người
ta hãy thần phục ngoại bang nên ông bị lên án là phản quốc. Ông không thể sống hòa đồng với người
khác. Tóm lại, Giê-rê-mi-a phải sống như
một kẻ cô độc trên đời. Tất cả như vậy
chỉ vì Lời Chúa đã chi phối ông hoàn toàn, đòi ông phải gắn bó với ý định của
Thiên Chúa, nghĩa là ông phải sống thảm kịch cuộc đời mình như phương tiện để
Chúa hành động giữa lòng dân tộc ông. Ở
mặt tích cực thì “gặp được lời Chúa, con đã nuốt vào, lời Ngài làm cho con hoan
hỷ, làm vui thỏa lòng con” (15:16), nhưng ở mặt tiêu cực thì “tâm can tôi tan
nát, xương cốt tôi rã rời. Tôi nên như
người say, nên như kẻ bứ rượu, cũng chỉ vì Đức Chúa, vì thánh ngôn của Người”
(23:9). Hơn các ngôn sứ khác,
Giê-rê-mi-a đã phải hết sức cố gắng để chấp nhận Lời Chúa và chấp nhận chính
con người mình trong tương quan với Lời Chúa.
Ông thổ lộ tâm tình với Chúa: “Tại
sao con cứ phải đau khổ hoài?” (15:18).
Hơn thế nữa, ông còn dám phàn nàn với Chúa về sự cô đơn và kiếp sống phù
du của ông nữa. Tuy nhiên tất cả những
cuộc đối thoại nội tâm này chỉ là để cho thấy cuộc đời ông bị xâu xé bởi sứ mệnh
ngôn sứ mà ông không thoái thác được.
Nhưng đặc
biệt trong bài đọc 1 trích sách Giê-rê-mi-a hôm nay, Giê-rê-mi-a kể lại việc
Thiên Chúa gọi ông làm ngôn sứ. Ông thưa
với Chúa và nêu lý do để từ chối là vì ông còn quá trẻ (mới hai mươi bốn tuổi). Nhưng Chúa không xét sự trưởng thành bằng số tuổi
mà bằng tâm hồn và lòng quảng đại. Hơn nữa,
khi trao trách nhiệm cho ai, Thiên Chúa luôn hứa rằng Người sẽ ở cùng kẻ ấy. Thí dụ với I-xa-ác: “Ta là Thiên Chúa của Áp-ra-ham,
cha ngươi.
Đừng sợ, vì Ta ở với ngươi” (St
26:24), với Mô-sê: “Ta
sẽ ở với ngươi. Và đây là dấu cho ngươi biết là Ta đã sai ngươi: khi ngươi đưa
dân ra khỏi Ai-cập, các ngươi sẽ thờ phượng Thiên Chúa trên núi này” (Xh 3:12), với dân Ít-ra-en: “Đừng sợ hãi: có Ta ở với ngươi. Đừng
nhớn nhác: Ta là Thiên Chúa của ngươi. Ta cho ngươi vững mạnh, Ta lại còn trợ giúp với tay hữu
toàn thắng của Ta” (Is 41:10), với các tông đồ: “Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi
ngày cho đến tận thế” (Mt 28:20). Thánh Phao-lô đã cảm nghiệm được sự hiện diện
của Chúa, nên ngài thách thức: “Có Thiên Chúa bênh đỡ chúng ta,
ai còn chống lại được chúng ta? (Rm 8:31). Hôm nay khi gọi Giê-rê-mi-a, Chúa cũng hứa sẽ
bảo vệ ông, vì Người đã “biết” ông trước khi ông ra đời. Người sẽ làm cho ông “nên thành trì kiên cố,
nên cột sắt tường đồng chống lại cả xứ”.
Dù mọi người chống đối ông, nhưng họ “sẽ không làm gì được”. Tại sao vậy? Vì “có Ta ở với ngươi để giải thoát ngươi”.
2. Chúa Giê-su là vị Ngôn Sứ bất khuất của Tân
Ước khi thi hành sứ vụ rao giảng Tin Mừng. Hẳn chúng ta không quên khi Đức Mẹ dâng Con
vào Đền Thờ, ông Si-mê-ôn đã nói tiên tri về Hài Nhi rằng: “Thiên Chúa đã đặt cháu bé này
làm duyên cớ cho nhiều người Ít-ra-en ngã xuống hay đứng lên. Cháu còn là dấu
hiệu cho người đời chống báng” (Lc 2:34). Giờ đây những lời ấy được ứng nghiệm ngay tại
quê nhà của Chúa Giê-su. Sau khi đọc
sách ngôn sứ I-sai-a tại hội đường Na-da-rét, Người bắt đầu chia sẻ Lời Chúa bằng
câu mở đầu: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời
Kinh Thánh tai quý vị vừa nghe”. Mọi người
đều khâm phục Người, nhưng nghĩ đến xuất xứ của Người cũng từ chính nơi
Na-da-rét mà ra, nên họ đổi sang thái độ khinh thường. Họ không sao quên được Người là ai ngay tại
nơi này: “Ông này không phải là con ông
Giu-se đó sao?” ‘Con ông Giu-se’ là hình
ảnh duy nhất của họ về Chúa Giê-su. Rồi
họ thách thức Chúa: “Tất cả những gì
chúng tôi nghe nói ông đã làm lại Ca-phác-na-um, ông cũng hãy làm tại đây, tại
quê ông xem nảo!” Rồi Chúa nói thẳng với
họ: “Không một ngôn sứ nào được chấp nhận
tại quê hương mình”. Và để chứng minh sự
thật này, Chúa đã đan cử trường hợp ngôn sứ Ê-li-a cứu giúp bà góa Xa-rép-ta miền
Xi-đôn thay vì cứu giúp bao nhiêu bà góa khác trong nước Ít-ra-en, bởi họ coi
thường ông Ê-li-a. Trường hợp thứ hai là
ngôn sứ Ê-li-sa đã chữa lành ông Na-a-man người xứ Xi-ri, chứ không chữa lành
bao nhiêu người phong cùi tại Ít-ra-en, bởi họ coi thường ông Ê-li-sa. Chúa Giê-su chỉ nói vậy thôi, thế mà “mọi người
trong hội đường đầy phẫn nộ”. Rồi họ lôi
Người lên đỉnh núi , định xô Người xuống vực để giết Người. Tất cả chỉ vì Chúa vạch trần sự cứng lòng và
kiêu căng của họ mà thôi. Còn lý do nào
khác khiến họ thù ghét Người nữa không?
Có thể họ thấy danh tiếng Người nổi lên khắp nơi nên sinh lòng ghen
tương. Có thể họ bực tức vì Người không
làm phép lạ nào ngay tại quê hương mình.
Nhìn vào thái độ của Người lúc này, chúng ta vô cùng cảm phục, vì Người
không chút tỏ ra giận dữ, nhưng chắc chắn có buồn phiền trong lòng. Đáp lại đám người hùng hổ muốn giết Người,
Người chỉ lẳng lặng “băng qua giữa họ mà đi”, vì có Thiên Chúa ở cùng Người! Đây chỉ là một trong những trường hợp Chúa
Giê-su bị chống đối. Ngoài ra sách Tin Mừng
đã thuật lại cho chúng ta rất nhiều hoàn cảnh chống đối Chúa của đủ hạng người,
từ những nhà lãnh đạo tôn giáo, nhóm Pha-ri-sêu, nhóm Xa-đu-kêu và chính quyền,
nhất là đám Pha-ri-sêu và các kinh sư luôn tìm trăm phương nghìn kế để bắt bẻ
và làm cho Người mất uy thế trước mặt dân chúng. Thánh Gio-an đã dùng một thuật ngữ là “người
Do-thái” để ám chỉ các kẻ thù của Chúa Giê-su.
Sự chống đối và thiếu lòng tin do các đồng bào của Chúa Giê-su quả thực
là một sự mỉa mai trong khi nhiều người dân ngoại đã làm cho Chúa ngạc nhiên và
khen ngợi lòng tin của họ. Thí dụ Chúa
nói với những kẻ theo Người về đức tin của ông đại đội trưởng người Rô-ma: “Tôi bảo thật các ông: tôi không
thấy một người Ít-ra-en nào có lòng tin như thế”
(Mt 8:10). Hoặc Chúa nói với người đàn
bà xứ Ca-na-an: “Này bà,
lòng tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao thì sẽ được vậy” (Mt 15:28). Sự
chống đối đã đi tới tận cùng khi “người Do-thái” gây áp lực với tổng trấn Phi-la-tô
để kết án đóng đinh Chúa vào thập giá.
Vậy Chúa
Giê-su đã làm gì khi bị chống đối? Chúng
ta có thể nghĩ ngay tới việc Người cầu nguyện.
Đã bao lần Người đi lên núi hoặc tới nơi thanh vắng để cầu nguyện với
Cha Người, có khi suốt đêm. Cầu nguyện
là sống mối tương quan với Chúa Cha và nhờ đó Người được củng cố lòng yêu mến
và trung thành. Người đã sống những điều
Người giảng dạy, nhất là việc yêu thương kẻ thù. Người thẳng thắn đối thoại với kẻ thù và sẵn
sàng tha thứ. Nếu theo Người vào cuộc Thương
Khó, chúng ta sẽ thấy được Người đã làm gì đối với những kẻ hành hạ và giết Người. Hành vi cuối cùng và cao cả nhất, đó là cầu
nguyện và tha thứ cho kẻ thù. “Lạy
Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm”
(Lc 23:34).
Sống sứ điệp Lời
Chúa
Chúng ta
thấy rõ lòng yêu mến Thiên Chúa là động lực chính đã giúp ngôn sứ Giê-rê-mi-a gắn
bó với Lời Chúa và trung thành thi hành sứ vụ, mặc dù ngài bị chống đối và bách
hại. Chúng ta cũng ngưỡng mộ Chúa Giê-su
đã đối phó với những kẻ chống đối và kẻ thù của Người bằng thái độ yêu thương kẻ
thù và tha thứ. Các ngài là những vị
ngôn sứ bất khuất, không vì bị chống đối mà thay đổi lòng yêu mến và quảng đại. Nhận thức được tầm quan trọng của đức mến,
thánh Phao-lô trong bài đọc hôm nay đã tôn vinh đức mến và người ta không ngại
gọi những suy nghĩ của ngài về đức mến là “bài ca đức mến”. Ngài kết luận bài ca bằng một khẳng định tuyệt
vời: “Hiện nay đức tin, đức cậy, đức mến,
cả ba đều tồn tại, nhưng cao trọng hơn cả là đức mến”. Đúng vậy, đang khi sống trên trần gian này,
chúng ta cần thực hành ba nhân đức kể trên
và ba nhân đức này phải “tồn tại” trong cuộc sống Ki-tô hữu chúng ta. Nhưng sau khi lìa bỏ trần gian này, chỉ còn lại
đức mến là theo chúng ta mà thôi. Là những
ngôn sứ ngày nay, chúng ta cần ba nhân đức ấy để giữ vững đức tin, nhất là cần
đức mến để chúng ta noi gương Chúa Giê-su mà yêu thương và tha thứ cho những kẻ
thù của chúng ta.
Lm. Đa-minh Trần
đình Nhi