CHÚA NHẬT 4 THƯỜNG NIÊN C
Gr 1,4-5.17-19 ; 1 Cr 12,31-13,13 ; Lc 4,21-30
THI HÀNH SỨ VỤ NGÔN SỨ CHO CHÚA
I. HỌC LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG : Lc 4,21-30
(21) Đức Giê-su bắt đầu nói với
họ : “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh thánh quý vị vừa nghe”. (22) Mọi
người đều tán thành và thán phục những lời hay ý đẹp thốt ra từ
miệng Người. Họ bảo nhau : “Ông này không phài là con ông Giu-se đó sao ?”.(23) Người bảo với họ : “Hẳn là các ông muốn
nói với tôi câu tục ngữ : Thầy lang ơi, hãy chữa lấy mình ! Tất cả những gì chúng tôi nghe nói ông đã làm
tại Ca-phác-na-um, ông cũng hãy làm tại đây, tại quê ông xem nào ! (24) Người nói tiếp : “Tôi bảo thật các ông :
Không một ngôn sứ nào được chấp nhận tại quê hương mình”. (25) “Thật
vậy, tôi nói cho các ông hay : thiếu gì bà góa ở trong nước Ít-ra-en
vào thời ông Ê-li-a, khi trời hạn hán suốt ba năm sáu tháng, cả nước
phải đói kém dữ dội. (26) Thế mà ông không được sai đến giúp một bà
nào cả. Nhưng chỉ được sai đến giúp bà góa thành Xa-rép-ta miền
Xi-đon. (27) Cũng vậy, thiếu gì người phong hủi ở trong nước Ít-ra-en
vào thời ngôn sứ Ê-li-sa. Nhưng không người nào được sạch, mà chỉ có
ông Na-a-man, người xứ Xy-ri-a thôi”. (28) Nghe vậy, mọi người trong hội
đường đầy phẫn nộ. (29) Họ đứng dậy, lôi Người ra khỏi thành (thành
này được xây trên núi). Họ kéo Người lên tận đỉnh núi, để xô Người
xuống vực. (30) Nhưng Người băng qua giữa họ mà đi.
2. Ý CHÍNH : ĐỨC GIÊ-SU BỊ NGƯỜI
ĐỒNG HƯƠNG BÁCH HẠI.
Tin mừng hôm nay cho thấy Đức Giê-su đã bị người
đồng hương Na-da-rét không tin và bách hại : vì họ đã không được Người
làm phép lạ để chứng minh vai trò Thiên Sai của Người trong khi Người
lại đòi họ phải có đức tin như điều kiện để Người làm phép lạ.
Người trưng dẫn hai nhân vật thời xưa là bà góa nghèo ở Sa-rép-ta
thời Ê-li-a và quan Na-a-man ở Sy-ri-a thời Ê-li-sa đã nhận được phép
lạ nhờ đức tin. Do không được thỏa mãn yêu cầu, nên dân Na-da-rét đã biến
từ thái độ thán phục ban đầu sang tức giận muốn giết hại Người.
3. CHÚ THÍCH :
- C 21-22 : + “Hôm nay đã
ứng nghiệm lời Kinh thánh quý vị vừa nghe” : Đức Giê-su trình bày sự xuất
hiện của Người như khai mở thời kỳ hồng ân mà các ngôn sứ đã loan
báo, nhưng hồng ân cứu độ ấy không dành riêng cho dân Ít-ra-en mà cho
mọi dân tộc. Tin mừng Lu-ca thường nhấn mạnh đến tính cách hiện tại
của ơn cứu độ bằng từ “hôm nay” (x. Lc 2,11). + “Ông này
không phải là con ông Giu-se đó sao ?” : Khi ra giảng đạo Đức Giê-su được 30 tuổi và thiên
hạ vẫn cho rằng Người là con của ông Giu-se (x. Lc
3,23).
- C 23-24 : + “Thầy lang ơi, hãy chữa lấy
chính mình !” : Đức Giê-su đã dùng câu tục ngữ
này để diễn tả ý muốn của các người đồng hương Na-da-rét, đòi Người
phải làm phép lạ để ưu tiên phục vụ đồng hương, giống như Người đã
từng làm ở các nơi. + Ca-phác-na-um : là một thành phố
nằm về hướng Tây Bắc biển hồ Ga-li-lê, và là trung tâm hoạt động của
Đức Giê-su. Tại đây, Đức Giê-su đã chữa lành nhiều bệnh nhân và thực
thi nhiều phép lạ (x. Mc 1,21-28) : tha tội trước khi chữa người bại
liệt (x. Mc 2,1-12), quan tâm đến người tội lỗi (x. Mc 2,15-17), khoan
dung trong việc giữ luật ăn chay và hưu lễ (x. Mc 2,18-27). + “Ông
cũng hãy làm tại đây, tại quê hương ông xem nào !” : Dân làng Na-da-rét muốn thử thách Người giống như Xa-tan
đã làm. Họ muốn lợi dụng Đức Giê-su để phục vụ cho ích lợi của họ
(x. Lc 4,1-14). Cũng vì tưởng đã thấu hiểu nguồn gốc của Đức Giê-su,
nên họ không tin Người là Con Thiên Chúa từ trời mà đến. Họ đòi
Người phải làm phép lạ để chứng minh sứ mệnh Thiên Sai của Người (x.
Lc 11,16). + “Không một Ngôn sứ nào được chấp nhận tại quê hương
mình” : Ngôn sứ hay tiên tri là phát ngôn viên của Thiên Chúa để
an ủi những người đau khổ tuyệt vọng, tiên báo tương lai tốt đẹp sắp
dến và động viên dân Do thái trung thành với đức tin vào Thiên Chúa
(x. Is 49,8-15); Cáo trách tội của các vua quan và dân chúng như ngôn
sứ Sa-mu-en đã trách phạt vua Sa-un (x. 1 V 15,12-23), Ngôn sứ Na-than đã
cáo trách tội “giết chồng đoạt vợ” của vua Đa-vít (x. 2 Sam 12,1-15), Ngôn sứ Giê-rê-mi-a trách
phạt dân chúng tội tôn thờ tà thần (x. Gr 7,30-34)... Chính do “Trung ngôn
nghịch nhĩ” và “Lời thật mất lòng” mà nhiều vị ngôn sứ đã bị
người đương thời thù ghét và giết hại (x. Lc 6,23b). Câu “Không
một ngôn sứ nào được tiếp nhận tại quê hương mình” tương tự câu “Bụt
nhà không thiêng” của người Việt chúng ta.
- C 25-27 : + Tôi nói cho các ông hay : Đức
Giê-su muốn trình bày tính phổ quát của ơn cứu độ, nghĩa là ơn ấy được
dành cho mọi dân mọi nước, chứ không dành riêng cho dân Ít-ra-en hay cho
dân làng Na-da-rét. Trong thời gian giảng đạo, Đức Giê-su cũng thường
đề cao đức tin của dân ngọai như :
khen viên đại đội trưởng người Rô-ma (x. Lc 7,9) ; Dạy môn đệ noi gương
bác ái của người Sa-ma-ri (x. Lc 10,36-37) ; Khen người đàn bà xứ Ca-na-an
(x. Mt 15,28). + Ê-li-a và bà góa ngoại giáo thành Xa-rép-ta vượt
qua cơn đói kém : Ê-li-a là một ngôn sứ rất nổi tiếng, sống
vào thế kỷ thứ chín trước công nguyên. Một bà góa ở thành Xa-rép-ta
miền Xi-đon sắp bị chết đói do trời hạn hán mất mùa. Nhờ tin và
làm theo lời Ê-li-a dạy mà bà này đã được hưởng phép lạ làm cho hũ
bột và bình dầu nhà bà đầy mãi cho tới khi hết nạn hạn hán (x. 1 V
18,1tt). + Ê-li-sa và quan Na-a-man ngoại giáo bị phong cùi : Ngôn sứ Ê-li-sa là đồ đệ
của ngôn sứ Ê-li-a, rất nổi tiếng vì có khả năng chữa bệnh cách lạ thường. Tại xứ Xy-ri-a có viên sĩ quan tên là Na-a-man bị
mắc bệnh phong cùi. Nhờ làm theo lời
một nữ tì người Ít-ra-en mách bảo, ông đã sang nước Ít-ra-en tìm đến
xin ngôn sứ Ê-li-sa chữa bệnh. Nhờ tin vào quyền năng của Thiên Chúa
và khiêm tốn vâng lời dạy xuống sông Gio-đan tắm 7 lần nên ông đã được phép
lạ khỏi bệnh (x. 2 V 5,1-14).
- C 28-30 : + Mọi người trong hội đường đầy
phẫn nộ : Họ phẫn nộ vì Đức Giê-su đã không thỏa mãn yêu cầu được xem Người làm phép lạ. Họ còn tức giận vì
Người đã đề cao dân ngoại hơn dân Do thái là
dân ưu tuyển của Đức Chúa. Họ
ganh tị vì Người coi trọng thành Ca-phác-na-um ngoại giáo, hơn quê nhà Na-da-rét của Người. Sự kiện này tiên báo Người
sẽ bị người ta chống đối, mà ông Si-mê-on đã tiên báo (x. Lc 2,34).
Cuối cùng Người còn bị kết án chịu chết trên cây thập giá nữa (x. Lc
20,15). + Nhưng Người băng qua giữa họ mà đi : Trước sự
chống đối của dân làng Na-da-rét, Đức Giê-su đã vượt qua giữa họ mà
đi trên đường của Người, là đường kết thúc tại thành Giê-ru-sa-lem (x.
Lc 13,33).
4. CÂU HỎI :
1) Tin mừng Lu-ca cho biết khi ra
giảng đạo Đức Giê-su được bao nhiêu tuổi và người đời nghĩ Người là
con của ai ? 2) Ngôn sứ và tiên tri giống hay khác nhau và có sứ vụ gì
? 3) Tại sao dân làng Na-da-rét đòi Đức Giê-su làm phép lạ cho họ xem
và họ đã phản ứng thế nào khi không được thỏa mãn ? 4) Hãy kể ra một
số trường hợp Đức Giê-su coi trọng dân ngọai hơn dân Do thái ? 5) Khi
nêu ra hai phép lạ do ngôn sứ Ê-li-a và Ê-li-sa đã làm cho hai người
đàn bà thuộc dân ngoại, Đức Giê-su muốn dạy điều gì với người đồng
hương Na-da-rét ? 6) Tại sao dân làng Na-da-rét nổi giận muốn giết chết
Đức Giê-su ?
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA : “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh
quý vị vừa nghe” (Lc 4,21).
2. CÂU CHUYỆN :
1) NA-THAN SỬA LỖI VUA ĐA-VÍT CÁCH KHÔN NGOAN (x. 2 Sm 12,1-13) :
Sau khi vua Đa-vít
phạm tội ngoại tình với nàng Bát-se-va vợ của tướng U-ri-gia, và vua ngầm hạ
lệnh cho đại tướng Gio-áp mượn tay quân địch ngoài mặt trận giết chết vị tướng
tài này, ngôn sứ Na-than đã được Đức Chúa sai đến cáo trách tội ác ngoại
tình và “giết
chồng đoạt vợ” của vua Đa-vít. Ngôn sứ Na-than đã vào đền vua và trình lên một
câu chuyện hư cấu về một nhà phú hộ có 10 ngàn con chiên, nhưng sai gia nhân
đến nhà anh nông dân nghèo chỉ có một con chiên cái duy nhất mà anh rất mực thương
yêu, rồi bắt con chiên ấy về làm thịt để đãi bạn bè. Vua Đa-vít sau khi
nghe kể về hành động thất nhân ác đức của tên phú hộ đã tỏ thái độ tức
giận với tên phú hộ. Bấy giờ Na-than
mới nói : “Tên phú hộ gian ác ấy chính là đức vua. Vua đã phạm tội ngoại tình
với nàng Bát-se-va rồi còn giết chồng là tướng U-ri-gia để đoạt vợ của ông ta”.
Nhờ cách cáo tội khôn ngoan này mà Vua Đa-vít đã nhận ra tội lỗi to lớn của
mình và đã hồi tâm sám hối.
2) HƯỚNG DẪN GIẢI PHÁP GIÚP MANG LẠI
HẠNH PHÚC :
Có một nhà hiền triết nọ chuyên làm cố vấn giúp đỡ những
ai buồn phiền chán nản. Bất cứ ai đến xin cũng đều được nhà hiền triết cho
lời khuyên hữu ích.
Một hôm, một người chủ xưởng may đến xin nhà
hiền triết giúp giải quyết khó khăn gặp phải trong gia đình. Gia đình
ông gồm 9 người : hai vợ chồng và 7 đứa con trai nhỏ. Họ sống chen chúc
nhau trong một căn chòi nóng bức chật chội. Do không có chỗ chơi nên lũ
trẻ rủ nhau vào vui đùa trong xưởng may tương đối rộng rãi. Bà mẹ luôn
miệng la hét lũ trẻ để giữ trật tự. Còn ông chủ phần lo sản xuất
quần áo, phần bị lũ con la hét quậy
phá nên tâm trí không lúc nào được thanh thản.
Nghe hoàn cảnh của gia đình ông chủ xưởng may, nhà
hiền triết liền cho lời khuyên như sau :
- Ông hãy ra chợ mua một con dê đực và mang về cột nó
trong xưởng may để lũ trẻ hết chỗ quậy phá.
Tuy không hiểu hết lý do, nhưng ông chủ xưởng may vốn
tin vào khả năng của nhà hiền triết, nên vâng lời ra chợ mua về một con
dê đực và cột nó vào góc xưởng may khiến lũ trẻ không còn chỗ vui
chơi quậy phá. Nhưng bây giờ lại đến lượt con dê đực quậy. Không những nó phóng uế bừa bãi bốc mùi hôi thối
trong xưởng may, mà miệng nó không ngừng kêu “be be”… khiến ai nấy đều
rất khó chịu !
Mấy hôm sau, ông chủ xưởng may lại đến than phiền về
sự quậy phá của con dê với nhà hiền triết và lần này ông lại cho lời
khuyên :
- Ông hãy về nhà và mau mang con dê ra chợ bán đi.
Nghe vậy, ông chủ xưởng may cảm thấy vui như vừa
được giải thoát khỏi gánh nặng. Ông vội về dắt con dê ra chợ bán, đang
lúc bà vợ cùng gia nhân làm tổng vệ sinh để tẩy uế nhà xưởng. Bảy đứa
nhóc sau khi thấy xưởng may sạch sẽ, lại rủ nhau vào trong xưởng vui
đùa la hét như trước. Có điều bây giờ tiếng la hét của chúng không
còn làm ông bố khó chịu. Ông tự nhủ : dù sao, tiếng la hét của lũ trẻ cũng
dễ chịu hơn nhiều so với tiếng kêu của con vật dơ bẩn đáng ghét kia … Và từ
ngày đó gia đình ông chủ xưởng may lại được yên vui hạnh phúc như
trước.
3) CAN ĐẢM NÓI LỜI TRUNG NGHĨA TRƯỚC KẺ THỦ ÁC :
Thôi Trữ là một quyền thần nước Tề, định giết
vua Trang Công để đoạt ngôi báu. Ông ta cho mời các quan chức triều
đình đến tư dinh để bàn mưu tính kế và uống máu ăn thề. Sau khi nghe
Thôi Trữ công khai tuyên bố chống lại nhà vua, các quan chức triều
đình có mặt đều tỏ ra khiếp sợ trước uy thế của Thôi Trữ và răm
rắp nghe theo. Duy chỉ có Án Tử là vẫn điềm nhiên tự tại và không mở
miệng thề hứa chi cả. Bấy giờ Thôi Trữ bảo Án Tử rằng : “Nếu ngươi
theo ta, thì sau khi ta thâu đoạt được ngai vàng, ta sẽ chia một nửa
nước cho. Còn nếu không nghe ta thì ngươi sẽ lập tức bị giết !”.
Trước khí thế của quân phản loạn, Án Tử vẫn giữ bình tĩnh. Ông trả
lời : “Lấy cái lợi để nhử và bắt người ta chống lại Quân vương là
bất trung. Lấy binh khí để hiếp đáp làm cho lòng người sợ hãi phải
nghe theo mình là thất đức. Giết thì giết! Ta đây quyết không làm theo
việc bất trung thất đức của ngươi đâu!”. Nói xong Án Tử đứng dậy ung
dung ra về, thế mà Thôi Trữ cũng không dám ra lệnh cho quân lính ngăn
lại và giết hại như đã đe trước đó.
Câu chuyện trên cho thấy những lời nói đúng đắn
cũng có sức mạnh chống lại được những kẻ gian ác. Những lời đó
mang tính tiên tri mà mỗi tín hữu chúng ta đều có thể thực hiện
được trong cuộc sống hằng ngày,
3. THẢO LUẬN :
Trên đường rao giảng Tin Mừng, Đức
Giê-su đã luôn ưu ái và đề cao dân ngoại hơn dân Do Thái. Vậy chúng ta nên
đối xử thế nào với anh em lương dân để giới thiệu Chúa cho họ ?
4. SUY NIỆM :
Khi muốn dạy dân Chúa điều gì, Đức Chúa không trực tiếp
hiện ra dạy dỗ, nhưng dùng các tổ phụ hay các ngôn sứ để tuyên sấm thay Ngài. Ngôn
sứ phải được Thiên Chúa chọn và phải nói tất cả những lời Đức Chúa muốn ông
nói. Những lời ngôn sứ nói ra thường không dễ nghe và khó được người nghe đón nhận,
vì đã vạch trần những sai trái của họ, nhất là khi họ là nhà lãnh đạo dân chúng
trong đạo ngoài đời.
1. Đức Giê-su thi hành sứ vụ ngôn sứ và bị
đồng hương chống đối :
Tin Mừng CN hôm nay thuật lại : Trong Hội đường Na-da-rét,
sau khi đọc đoạn sách của Ngôn sứ I-sai-a về sứ vụ Đấng Thiên Sai, Đức Giê-su
tuyên bố : “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh mà quý vị vừa nghe” (Lc
4,21). Lúc đầu dân làng Na-da-rét thán phục về tài ăn nói khôn ngoan lưu loát của
Đức Giê-su, nhưng rồi do thành kiến về nghề thợ mộc thấp hèn và gia cảnh tầm thường của Người, nên họ không tin Người là Đấng
Thiên Sai. Họ đòi Đức Giê-su phải chứng minh vai trò Thiên Sai bằng các phép lạ như Người đã
làm tại thành Ca-phác-na-um. Nhưng Đức Giê-su đã
không làm phép lạ nào tại đây vì họ không tin.
Sở dĩ dân ngoại đã được hưởng phép lạ, vì họ đã tin Đức Giê-su là Đấng Thiên Sai. Rồi Người kết luận :“Không một ngôn sứ nào được chấp nhận tại quê hương
mình”. Nghe vậy, mọi người trong hội đường đầy phẫn nộ vì họ nghĩ Đức Giê-su đã coi trọng dân ngoại hơn dân Do thái, và đã xem thường người đồng hương. Họ hè nhau lôi Người lên triền núi để xô Người
xuống vực, nhưng “người đã băng qua giữa họ mà đi” (Lc 4,30).
2. Thi hành sứ vụ ngôn sứ hôm nay : Mỗi tín hữu chúng ta nhờ chịu phép rửa tội và thêm sức nên đã được
tham phần vào sứ vụ ngôn sứ của Đức Giê-su. Để chu toàn sứ vụ ngôn sứ cao quý này, chúng ta cần tránh và cần làm những gì ?
-Cần tránh thành kiến với tha nhân : Dân làng Na-da-rét do có thành kiến về nghề nghiệp và
gia cảnh của Đức Giê-su, nên đã không tin vào sứ vụ Thiên Sai của Người. Thành
kiến là một thói xấu mà ai trong chúng ta ít nhiều cũng mắc phải : Cùng một lời
nói hay việc làm do một người có địa vị cao hay uy tín lớn nói thì được mọi
người coi trọng, đang khi nếu lời nói hay việc làm đó
lại do một người bình dân làm thì
sẽ bị mọi người coi thường và không chấp nhận.
-Cần tránh thái độ ích kỷ cục bộ : Qua câu chuyện hũ bột tại nhà bà góa nghèo thời ngôn sứ Ê-li-a không bị cạn, và bệnh cùi của viên quan ngoại
giáo Na-a-man thời ngôn sứ Ê-li-sa được khỏi bệnh cách lạ thường, Đức Giê-su cho
thấy mọi dân tộc đều được Chúa ban ơn cứu độ chứ không chỉ riêng dân Do thái, miễn là họ phải có lòng tin, thể hiện
qua việc thực hành Lời Chúa. Đức Giê-su muốn chúng ta hôm nay không đóng khung
các họat động tông đồ hay việc chia sẻ bác ái trong phạm vi hạn hẹp, mà phải mở
rộng tình thương đến hết mọi người.
-Cần nói Lời
Chúa cách trung thực :
Làm ngôn sứ không dễ, vì phải nói Lời
Chúa cách chính xác, dù sự thật thường mất lòng. Nhưng đã là ngôn sứ thì
chúng ta phải trung thành nói lời Chúa và sẵn sàng đón nhận hậu quả có thể bị
kẻ ác thù ghét bách hại.
-Cần dũng cảm bênh vực công lý : Làm ngôn sứ đôi khi cũng phải lội ngược dòng. Chúng ta
cần tránh ngả theo dư luận xấu, cũng không hùa theo số đông lầm
lạc, mà phải biết ứng xử khôn ngoan theo lời Chúa dạy. Điều này đòi chúng ta phải dũng cảm đứng về phía sự thật và khôn ngoan để giữ hòa khí với mọi người. Chính thái độ can đảm và khôn
ngoan dám bênh vực công lý này sẽ giúp người đời nhận biết tôn thờ Thiên Chúa
như Lời Chúa phán : “Ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước
mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của
anh em, Đấng ngự trên trời” (Mt 5,16).
3. Thi hành sứ vụ
Ngôn Sứ trong việc sửa lỗi anh em :
Mỗi Kitô hữu, qua Bí Tích Rửa Tội và Thêm Sức, cũng là ngôn
sứ của Chúa, vì đó là một trong ba chức năng của Đức Kitô mà mọi tín hữu được
tham phần. Nhiệm vụ ấy đòi mỗi tín hữu phải can đảm thi hành triệt để trong
cuộc sống hằng ngày, bằng chứng tá sống động, mặc dầu có thể bị chối bỏ hay
chống đối.
- Sứ vụ ngôn sứ không dễ thực hiện : Để nói Lời Chúa cách hữu hiệu với người có lỗi để họ sẵn sàng đón nhận và sửa đổi, chúng ta cần làm việc đó cách
khôn ngoan, như ngôn sứ Na-than đã làm khi sửa
lỗi cho vua Đa-vít (x. 2 Sm
12,1-13).
- Cần sửa lỗi tha nhân thế nào? : Để việc sửa lỗi đạt kết quả, chúng ta nên theo thứ tự như sau :
+ Nhờ
ơn Chúa giúp như Lời Chúa dạy : “Vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được” (Ga 15,8).
+ Cần tạo uy tín : Phải biết tự sửa mình trước khi sửa lỗi tha nhân, để
tránh tình trạng : “Chân mình những lấm bê bê, lại cầm bó đuốc mà rê chân người”.
+ Cần sửa lỗi do tình bác ái thôi thúc chứ không do sự ganh ghét đố kỵ.
+ Cần áp dụng phương pháp “viên thuốc bọc đường” : “khen trước chê sau”, “khen nhiều chê ít”.
+ Cần sửa lỗi theo bốn bước
theo Lời
Chúa dạy như sau : Một là gặp riêng
kẻ có lỗi; Hai là mang theo một hoặc hai
nhân chứng; Ba là đưa kẻ có lỗi ra cộng đoàn; Bốn là coi kẻ cố chấp như dân ngoại
và phó thác họ cho lòng thương xót của Thiên Chúa (x. Mt 18,15-17).
5. LỜI CẦU :
Lạy Chúa Giê-su. Xin giúp chúng con chu tòan sứ vụ Ngôn Sứ là rao giảng Tin
Mừng trong xã hội
hôm nay. Xin cho chúng con chuyên cần học sống Lời Chúa tại nhà thờ. Đọc
câu Lời Chúa trong
giờ kinh tối gia đình hằng ngày. Xin cho chúng con biết làm chứng cho “Sự Thật”
(x Ga 14,6), và tin vào sức mạnh của sự thật, như Chúa đã dạy : “Sự thật sẽ giải phóng các ông” (Ga 8,32).
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI
CHÚNG CON
LM ĐAN VINH - HHTM