CHÚA NHẬT 14 THƯỜNG NIÊN C
Is 66,10-14c ; Gl 6,14-18 ;
Lc 10,1-12.17-20
NÊN CHỨNG NHÂN CỦA CHÚA TRONG CUỘC
SỐNG HÔM NAY
I.
HỌC LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG : Lc 10,1-12.17-20
(1) Sau đó, Chúa chỉ định bảy mươi hai người khác, và sai các ông
cứ từng hai người một đi trước, vào tất cả các thành, các nơi mà
chính Người sẽ đến. (2) Người bảo các ông : “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít. Vậy anh em hãy xin chủ
mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về”. (3) Anh em hãy ra đi. Này Thầy sai anh
em đi như chiên con đi vào giữa bầy sói. (4) Đừng mang theo túi tiền,
bao bị, giày dép. Cũng đừng chào hỏi ai dọc đường. (5) Vào bất cứ
nhà nào, thì trước tiên hãy nói : “Bình an cho nhà này !” (6) Nếu ở đó có ai
đáng hưởng bình an, thì bình an của anh em sẽ đến đậu trên người ấy.
Bằng không, thì bình an đó sẽ quay về với anh em. (7) Hãy ở lại nhà
ấy, và người ta cho ăn uống thức gì, thì anh em dùng thức đó, vì
làm thợ thì đáng được trả công. Đừng đi hết nhà nọ đến nhà kia. (8)
Vào bất cứ thành nào mà được người ta tiếp đón, thì cứ ăn những
gì người ta dọn cho anh em. (9) Hãy chữa những người đau yếu trong
thành và nói với họ : “Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần
các ông”. (10) Nhưng vào bất cứ thành nào mà người ta không tiếp đón,
thì anh em ra các quảng trường mà nói : “Ngay cả bụi trong thành các ông dính chân chúng tôi, chúng tôi
cũng xin giũ trả lại các ông. Tuy nhiên, các ông phải biết điều này : “Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần”. (12) Thầy nói cho anh em hay : Trong ngày ấy, thành Xơ-đom còn được xử khoan hồng hơn thành
đó”. (17) Nhóm Bảy Mươi Hai trở về hớn hở nói : “Thưa Thầy, nghe đến Danh Thầy, cả ma quỷ cũng phải khuất phục
chúng con”. (18) Đức Giê-su bảo các ông : “Thầy đã thấy Xa-tan như một tia chớp từ trời sa xuống. (19)
Đây, Thầy đã ban cho anh em quyền năng để đạp lên rắn rết, bò cạp và
mọi thế lực kẻ thù, mà chẳng có gì làm hại được anh em. (20) Tuy
nhiên, anh em chớ mừng vì quỷ thần phải khuất phục anh em. Nhưng hãy
mừng vì tên anh em đã được ghi trên trời”.
2. Ý CHÍNH :
Đức Giê-su chỉ định bảy mươi hai người làm môn đệ và sai họ từng
hai người đi thực tập truyền giáo. Các ông làm theo lời Thầy dạy và
đã đạt được kết quả mỹ mãn.Cụ thể là ma quỷ đã phải chịu khuất
phục trước các ông.
3. CHÚ THÍCH :
- C 1-2 : + Chúa chỉ định bảy mươi hai
người : con số 70 (theo bản văn tiếng Hipri) hay số 72
(theo bản văn tiếng Hy-Lạp) tượng trưng các tín hữu. Số 72 môn đệ này được Đức
Giê-su chọn để cộng tác với Người giống như Mô-sê xưa đã nghe lời góp ý của nhạc
phụ chọn ra 72 vị kỳ lão giúp phục vụ dân Chúa trong thời Xuất Hành (x Xh
18,13t). + Sai các ông cứ từng hai người một đi trước : Đi hai người để dễ trợ giúp nhau
(x. Gv 4,-12). Thời Giáo hội sơ khai, các Tông đồ đã đi truyền giáo
từng hai người: Bác-na-ba đi với Sao-lô (x. Cv 13,2); Giu-đa đi với Xi-la
(x. Cv 15,27); Bác-na-ba đi với Mác-cô; Phao-lô với Bác-na-ba (x. Cv 15,35);
Ti-mô-thê với Ê-rát-tô (x. Cv 19,22). + Phân biệt hai chức vụ Tông
đồ và Môn đệ : Môn đệ là những người nhận Đức Giê-su làm Thầy và đi theo để nghe
Người giảng và sống theo Lời dạy của Người. Có bảy mươi hoặc bảy mươi
hai môn đệ. Các ông cũng được Đức Giê-su sai đi trước đến những nơi mà
chính Người sẽ tới (x. Lc 10,1). Khi Đức Giê-su rao giảng ở đâu, các
môn đệ tụ tập đến nghe, rồi sau đó lại trở về với gia đình vợ con
và hành nghề của mình sinh sống. Còn Tông đồ là 12 người được Đức Giê-su
chọn trong số 72 môn đệ (x. Lc 6,13), được sai đi rao giảng Tin mừng (x.
Lc 9,2). Các ông đã được Đức Giê-su yêu cầu bỏ nghề dánh cá biển để đi theo
Người làm nghề mới là đánh bắt các linh hồn (x. Mc 1,16-18). Các ông đã được
chứng kiến các phép lạ Người làm (x. Lc 7,11); Được tham dự bữa Tiệc
ly Vượt qua (x. Mt 26,26-29); Cùng trải qua biến cố Tử Nạn và Phục Sinh
với Người (x. Lc 24,36-43); Được Người trao quyền cầm buộc và tháo
cởi (x. Mt 16,19), quyền chăn chiên (x. Ga 21,15-17); Sẽ được đồng bàn
trong Vương quốc với Người, và được ngồi trên 12 tòa mà xét xử 12 chi
tộc Ít-ra-en (x. Lc 22,30); Cuối cùng các ông còn được Người sai đi để
làm chứng cho Người đến tận cùng thế giới (x. Mt 28,19; Cv 1,8). + Lúa
chín đầy đồng : Các Ngôn sứ trong Cựu ước đã từng miêu tả ngày phán xét như một
ngày gặt hái (x. Is 41,15; Gr 51,33). Ông Gio-an Tẩy giả đã kể ra việc
phán xét của Đấng Thiên Sai trong ngày tận thế tương tự như các động
tác của người nông dân sau mùa gặt lúa (x. Lc 3,17). Ở đây, Đức Giê-su
cho môn đệ tham dự vào công trình của thời Cánh chung của Người bằng
sự cầu nguyện và loan báo Tin mừng.
- C 3-6 : + Như chiên giữa bầy sói : Các môn đệ của Đức Giê-su sẽ đi
vào trần gian đầy những kẻ thù đang tìm cách bách hại các ông. Người
chỉ thị cho các ông phải ra đi với hai bàn tay không mang khí giới, lòng
đầy nhân ái và cư xử hiền lành như con chiên. Các ông phải đặt trọn
niềm cậy trông vào Chúa quan phòng. + Cũng đừng chào hỏi ai dọc
đường : Vì người Do thái và các dân vùng Trung Đông gặp nhau thường chào
hỏi hàn huyên lâu giờ. Đức Giê-su muốn các môn đệ đừng để các việc
trần thế làm mất nhiều thời gian. Trong các sách của Lu-ca, các sứ giả
của Tin mừng đều đi như chạy: Đức Ma-ri-a chạy đi thăm bà Ê-li-sa-bét,
các mục đồng chạy đến máng cỏ, hai Tông đồ Phê-rô và Gio-an chạy ra thăm
mồ Chúa, Phi-líp-phê chạy để đuổi kịp chiếc xe của một người
Ê-thi-ô-pi (x. Cv 8,3). + “Bình an cho nhà này” : Lu-ca lấy lại cách chào hỏi thông
thường của Cựu ước (x. 1 Sm 25,6). Đây là một lời cầu chúc phúc lộc
an khang, một lời chúc lành. Bình an là mức sung mãn của sự sống,
là món quà cao quý nhất mà Đấng Mê-si-a ban tặng (x. Lc 1,79). + Có
ai đáng hưởng bình an : Đây là người tin và sẵn sàng đón nhận ơn bình an của Thiên Chúa.
- C 7-9 : + Người ta cho ăn uống thức gì,
thì anh em dùng thức đó Đây là một sự cởi mở
của Đức Giê-su. Người cho phép các môn đệ được ăn mọi thức ăn do
người ta dọn cho. + Làm thợ thì đáng được trả công : Ăn những thức người ta dọn cho không
phải là ăn của bố thí, nhưng là một thứ lương bổng do sự công bằng
đòi buộc, tương xứng với Tin mừng cao quý mà các ông đem đến. Trách
nhiệm của Cộng đoàn Hội thánh là phải lo phương tiện sống và hoạt
động cho các người rao giảng Tin mừng. Sau này thánh Phao-lô cũng nói
rằng : “Quả vậy Kinh thánh có nói: Đừng bịt mõm con bò đang đạp lúa,
và làm thợ thì đáng được trả công (1 Tm 5,18; Mt 10,10; Đnl 25,4). Nơi
khác Ngài còn nói : “Một khi chúng tôi đã gieo của
thiêng liêng cho anh em, thì nếu chúng tôi có gặt của vật chất nơi anh
em, thì đâu có phải là chuyện quá đáng” (1 Cr 9,11). Tuy nhiên thánh
Phao-lô lại từ chối quyền gặt hái của cải vật chất ấy cho bản thân
ngài (x. 1 Cr 9,12-14 ; 2 Cr 11,7-9). + Đừng đi hết nhà nọ đến nhà
kia : Người Tông đồ phải tránh lo lắng tìm sự tiện nghi ăn ở cho mình,
nhưng cần chuyên tâm chu tòan sứ vụ. + “Triều Đại Thiên Chúa đã
đến gần các ông” : Các môn đệ đi trước dọn đường cho Đức Giê-su sắp đến. Người
chính là hiện thân của Triều Đại Thiên Chúa.
- C 10-12 : + Vào bất cứ thành nào mà
người ta không đón tiếp... : Đức Giê-su cảnh báo cho các môn đệ
biết họ sẽ bị người ta từ chối Tin mừng. Bấy giờ các ông vẫn phải
cho họ biết rằng: Dù họ có muốn hay không, một ngày kia, Thiên Chúa
sẽ hiển trị. Đó là ngày Phán xét. Nếu họ cố tình chối từ, họ sẽ
bị loại ra khỏi Nước Thiên Chúa. + Thành Xơ-đom : Là một địa danh thời Tổ phụ
Ap-ra-ham. Thành này đã bị phạt vì đã phạm nhiều tội lỗi (St 10,19).
- C 17-20 : + Nghe đến Danh Thầy, cả ma quỷ
cũng phải khuất phục chúng con : Ma quỷ phải chịu xuất ra khỏi
người bị chúng ám khi các môn đệ ra lệnh nhân Danh Đức Giê-su (x. Cv
16,18). + Xa-tan từ trời sa xuống : Xa-tan là cái tên ám chỉ ma quỷ,
kẻ đối lập và thù ghét Thiên Chúa. Do đó, khi Nước Thiên Chúa xuất
hiện, thì quyền lực của Xa-tan sẽ bị lật đổ. + Quyền năng để
chà đạp lên rắn rết... : Các loài vật kể ra ở đây là khí giới
của Xa-tan. Đức Giê-su chiến thắng Xa-tan thì cũng tước đoạt hết khí
giới của chúng và bắt chúng phải phục quyền (Rm 8,37-39 ; Ga 12,31). +
Mừng vì tên được ghi trên trời : Ở đây là cuốn sách trường sinh,
trong đó có ghi tên những người được ơn cứu độ (x. Đnl 12,1; Kh 3,5).
4. CÂU HỎI : 1) Đức Giê-su sai bao nhiêu môn đệ đi truyền giáo ? 2) Tại sao môn
đệ phải đi từng hai người một ? 3) Có bao nhiêu Tông đồ ? 4) Tông đồ
khác với môn đệ thế nào ? 5) Tại sao Đức Giê-su lại truyền cho môn đệ
đừng chào hỏi ai dọc đường và chúc bình an cho nơi mà các ông đến ở
trọ ? 6) Hãy cho biết lý do các môn đệ được ăn mọi thứ người ta dọn
cho ? 7) Thành Xơ-đom là thành nào ? 8) Khi nào thì quyền lực của
Xa-tan hòan tòan bị sụp đổ ?
II.
SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA : “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt
lại ít. Vậy anh em hãy xin chủ mùa gặt sai thợ gặt lúa về” (Lc 10,2).
2. CÂU CHUYỆN :
1) CHỨNG NHÂN CỦA CHÚA GIỮA ĐỜI THƯỜNG :
Tại Thủ đô Ma-ni-la nước Phi-líp-pin, có trường Đại học Công giáo
A-ta-di-ô do các cha dòng Tên sáng lập, tọa lạc trên một ngọn đồi. Đây
là một trường cung cấp rất nhiều nhân tài cho đất nước Phi. Dưới chân
trường Đại học này là một khu lao động nghèo, trong đó có một cộng
đoàn tu sĩ Tiểu đệ. Đa số các tu sĩ ở đây đã từng ở Việt nam.
Một hôm, một vị linh mục dòng Tên người Mỹ, là Giáo sư Đại học
A-ta-di-ô tình cờ đi lạc vào khu lao động ấy và giữa đườngông ta gặp
được một tu sĩ Tiểu đệ người Bỉ. Sau khi làm quen, vị linh mục người
Mỹ đã hỏi tu sĩ người Bỉ : “Thầy làm gì ở khu lao động này
?” Tu sĩ người Bỉ kia trả lời : “Hằng ngày tôi đi chợ, nấu ăn,
giặt quần áo, đi làm thuê làm mướn cho những ai cần”. Nghe thế, vị
linh mục người Mỹ rất lấy làm tiếc về sự hy sinh lãng phí của tu
sĩ trí thức người Bỉ kia. Ông cũng cho biết công việc của ông ở đây
là : Dạy học cho các sinh viên, đi thuyết trình nhằm rao giảng Tin
mừng và đào tạo những nhà trí thức phục vụ Giáo hội Phi-lip-pin.
Thực ra mọi thành
phần linh mục tu sĩ hay giáo dân trong Giáo Hội đều được Chúa trao phó sứ mạng đi
loan báo Tin Mừng khắp muôn dân. Nhưng mỗi thành phần linh mục tu sĩ hay giáo
dân sẽ thi hành sứ mạng tuỳ theo ơn gọi của mình. Riêng các tu sĩ cũng được đào
tạo để thi hành sứ mệnh theo linh đạo của hội dòng mình. Tu sĩ dòng Tên được
đào tạo để dạy học, loan báo Tin Mừng cho các sinh viên đại học. Còn các tu sĩ
dòng Tiểu Đệ lại được đào tạo để ưu tiên phục vụ người bình dân. Tất cả các hội
dòng đều nhằm giới thiệu Chúa và làm chứng nhân của Chúa cho những người chưa
biết Chúa.
2) HÃY CHIẾN THẮNG SỰ DỮ BẰNG LÒNG TIN
YÊU :
Vào một buổi tối nọ, một diễn giả nổi tiếng là GION KEO-LƠ (John Keller)
được mời thuyết trình trước khoảng một trăm ngàn người tại một vận động trường ở
Los Angeles. Đang diễn thuyết, bỗng ông dừng lại và nói : “Xin các bạn đừng sợ. Tôi sắp yêu cầu tắt tất cả đèn trong sân vận động
này”.
Đèn tắt, sân vận động chìm sâu trong bóng tối. Ông John Keller lại nói tiếp : “Bây giờ tôi sẽ đốt lên một que diêm. Những ai nhìn thấy ánh lửa của que
diêm tôi đốt thì hãy kêu lớn tiếng : “Thấy rồi !” Một que diêm vừa được bật
lên, thì cả vận động trường đều vang lên “Thấy rồi !”
Sau đó đèn trong vận động trường được bật sáng trở lại và ông John Keller
giải thích : “Ánh sáng của một hành động nhân ái dù nhỏ
như một que diêm cũng có thể chiếu sáng trong bóng đêm tăm tối của nhân loại y
như thế”.
Rồi một lần nữa, tất cả đèn trong sân vận động lại vụt tắt và một giọng
nói vang lên ra lệnh : “Tất cả những ai có mang theo hộp quẹt,
xin hãy đốt cháy lên !” Bỗng chốc, cả vận động trường đều rực
cháy ánh sáng.
Rồi ông John Keller kết luận : “Nếu tất cả mọi người chúng ta đều hợp lực
cùng nhau, chúng ta sẽ có thể chiến thắng bóng tối, chiến thắng sự dữ và sự oán
thù bằng những đốm sáng nhỏ của tình thương và lòng tốt của chúng ta”.
3) CÂY LÀM MƯA:
Ở Pê-ru có một loại cây rất ngộ nghĩnh, người ta bản xứ gọi nó là “cây làm
mưa”. Lá nó hút hơi nước trong không khí, rồi nhỏ xuống như những giọt sương
mai. Vì thế, chung quanh nó mặt đất lúc nào cũng ẩm ướt. Và trời càng nóng, thì
nó càng nhỏ xuống nhiều nước.
Mỗi người chúng ta cũng phải trở nên như một cây làm mưa hữu ích cho tha
nhân chung quanh đang khô khan nguội lạnh. Bằng đời sống đạo đức, chúng ta sẽ
hút lấy ân sủng của Chúa, rồi bằng những hành động bác ái, chúng ta gieo ân sủng
ấy cho tha nhân chung quanh đang cần được trợ giúp.
4) LỐI SỐNG HƯỞNG THỤ KHÔNG HỢP VỚI SỨ MỆNH
LOAN TIN MỪNG:
Một linh mục nọ từ nơi khác đến xin gia nhập vào một giáo phận truyền giáo
để được phục vụ tại các giáo điểm truyền giáo cho đồng bào dân tộc vùng sâu vùng xa. Trong cuộc trao đổi, linh mục này đã quen sống trong môi trường thành thị nên đã hỏi bề trên giáo phận như sau :
- Giáo điểm có xe hơi để di chuyển không ?
- Nhà ở trong giáo điểm có gắn máy lạnh không ?
- Có người giúp việc lo phục vụ nấu ăn và quét dọn vệ sinh hằng ngày không ?
- Tiền lương mỗi tháng được bao nhiêu ?
- Mỗi năm có được hưởng chế độ nghỉ hè một tháng không ? v.v…
Cuối cùng linh mục này đã bị bề trên từ chối gia nhập giáo phận vì có lối sống
không thích hợp với sứ mệnh loan báo Tin Mừng.
3. THẢO LUẬN: 1) Thế giới đã nhận biết và ca ngợi điều gì trong cuộc sống và
hoạt động của Mẹ Tê-rê-sa Can-quýt-ta ? 2) Ngày nay, muốn làm tông đồ truyền
giáo hữu hiệu cho đồng bào Việt nam, chúng ta cần làm gì ?
4. SUY NIỆM :
Công đồng Va-ti-ca-nô II đã khẳng định : "Tự bản tính, Giáo Hội lữ hành phải truyền giáo". Đức Thánh
Cha Gio-an Phao-lô II cũng qủa quyết : "Không một ai trong những người
tin vào Đức Ki-tô, và không một tổ chức nào của Hội thánh được miễn trừ trách vụ cao cả này : Đó là đi loan báo Đức Ki-tô cho mọi dân tộc".
Thánh Phao-lô đã thốt lên : "Khốn cho thân tôi : nếu tôi không rao giảng Tin Mừng" (1 Cr 9,16). Nhưng chính việc làm
mới chứng thực cho lời rao giảng, còn lời rao giảng chỉ làm sáng tỏ việc làm của
ta. Ra đi là để làm chứng, và lời chứng sáng giá nhất chính là việc làm như
Moody đã nói : "Các ngọn hải đăng ở bờ biển
không thổi còi ầm ĩ, chúng chỉ chiếu sáng mà thôi".
1) Có nhiều cách thức truyền giáo : Qua cuộc đối thoại giữa vị linh mục dòng Tên người Mỹ và vị tu sĩ dòng
Tiểu đệ người Bỉ trong câu chuyện trên, chúng ta thấy có nhiều cách
truyền giáo trong Hội thánh : Vị linh mục dòng Tên đại diện cho
đông đảo các nhà truyền giáo trên khắp thế giới, ngày đêm rao giảng
Tin mừng bằng khả năng tri thức và các phương tiện sẵn có. Nhưng bên
cạnh đó, còn có các tu sĩ âm thầm sống giữa những người nghèo, chia
sẻ sự lao động chân tay cực nhọc với những người nghèo khác... mà tu
sĩ dòng Tiểu đệ người Bỉ trong câu chuyện trên là một bằng chứng. Đây
là những chứng nhân truyền giáo trong âm thầm, lấy cuộc sống phục vụ
để làm chứng cho Chúa. Cả hai đường lối truyền giáo ấy đều có giá
trị và thực sự đã đem lại nhiều kết quả tốt đẹp cho Hội thánh.
2) Điều kiện của các thừa sai : Khi sai các môn đệ đi truyền giáo,
Đức Giê-su đã căn dặn các ông phải sống hiền lành và đơn giản như sau : “Đừng mang theo túi tiền, bao bị, giày dép. Cũng đừng chào hỏi
ai dọc đường”. Như vậy, một cuộc sống siêu thoát, không lệ thuộc vào
của cải đời này, không phí thời giờ vào những chuyện không đâu, trông
cậy vào Chúa quan phòng, khiêm tốn đón nhận sự giúp đỡ về nhà ở,
cơm ăn... Tôn trọng tự do của tha nhân, chấp nhận có thể bị những kẻ có
ác cảm với đạo từ chối xua đuổi... đó chính là những điều mà những ai
muốn làm chứng cho Nước Trời cần thực hiện.
3) Sống đạo và truyền đạo : Hiện nay dân số Á châu chiếm gần
hai phần ba thế giới. Nhưng số người nhận biết Chúa chưa được 3 phần
trăm. Á châu chính là cánh đồng lúa chín đang cần thợ gặt. Là thành
phần của Hội thánh, mỗi tín hữu chúng ta cũng phải thi hành sứ vụ
tông đồ. Chúng ta phải sống thế nào để những người khác phải bỡ
ngỡ giống như người Do thái tại Giê-ru-sa-lem khi quan sát sinh hoạt của Cộng đoàn Hội thánh sơ khai đã phải thốt lên: “Xem kìa, họ thương
nhau dường nào !”. Ki-tô giáo không phải là một lý thuyết nhưng là
sức sống của Đức Giê-su. Sống đạo là sống sức sống của Chúa và
truyền đạo là truyền sức sống ấy cho tha nhân.
4) Gây thiện cảm để giới thiệu Chúa cho
lương dân : Gần đây hội nghị các Giám mục Á châu đã liệt kê một số điều
mà các tín hữu cần học hỏi nơi các dân tộc châu Á như sau : Học tập cách cầu nguyện ăn chay và bố thí của người Hồi
giáo. Học tập cách chiêm niệm nơi người Ấn giáo. Học tập sự từ bỏ
của cải và tôn trọng sự sống nơi người Phật tử. Học cách xây dựng
gia đình và xã hội có trật tự nơi Khổng giáo. Học sống đơn sơ khiêm
tốn nơi Lão giáo... Càng học, ta càng nhận ra giáo lý Đức Giê-su
tiềm ẩn trong các tôn giáo đó, và nhờ hiểu biết họ ta sẽ gây được
thiện cảm với họ, để giới thiệu Đức Giê-su cho họ hữu hiệu hơn.
5. NGUYỆN CẦU :
LẠY CHÚA GIÊ-SU. Thế giới thật bao la và vòng tay của
chúng con lại quá bé nhỏ. Xin dạy chúng con biết nắm chặt tay nhau.
Xin cho chúng con biết hợp tác với những người thiện chí dù họ không
cùng niềm tin với chúng con, để mọi người cùng nhau loại trừ các tệ
nạn xã hội, xây dựng một “Trời Mới Đất Mới” công bình và nhân ái theo
thánh ý Chúa.- AMEN.
LM ĐAN VINH- HHTM