CHÚA NHẬT 28 THƯỜNG NIÊN C
2V 5,14-17 ; 2Tm 2,8-13 ; Lc 17,11-19
LUÔN BIẾT TẠ ƠN CHÚA TRONG CUỘC SỐNG
I. HỌC LỜI
CHÚA
1. TIN MỪNG : Lc 17,11-19
(11) Trên
đường lên Giê-ru-sa-lem, Đức Giê-su đi qua biên giới giữa hai miền
Sa-ma-ri và Ga-li-lê. (12) Lúc Người vào một làng kia, thì có mười
người phong cùi đón gặp Người. Họ dừng lại đằng xa (13) và kêu lớn
tiếng : “Lạy Thầy Giê-su, xin dủ lòng thương
chúng tôi !” (14) Thấy vậy,
Đức Giê-su bảo họ : “Hãy đi trình diện với các tư tế”. Đang khi đi thì họ đã được
sạch. (15) Một người trong bọn thấy mình được khỏi, liền quay trở
lại và lớn tiếng tôn vinh Thiên Chúa. (16) Anh ta sấp mình dưới chân
Đức Giê-su mà tạ ơn. Anh ta lại là người Sa-ma-ri. (17) Đức Giê-su mới
nói : “Không phải cả mười người đều được sạch sao ? Thế thì chín
người kia đâu ? (18) Sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà
chỉ có người ngoại bang này ?” (19) Rồi Người nói với anh ta : “Đứng dậy
về đi! Lòng tin của anh đã cứu chữa anh”.
2. Ý CHÍNH : Bài Tin mừng hôm nay cho thấy trên
đường lên Giê-ru-sa-lem, Đức Giê-su đã chữa cho mười người phong cùi
được khỏi do đức tin của họ vào Người, biểu lộ qua lời cầu xin tha
thiết và qua thái độ vâng lời Người dạy. Tuy nhiên trong 10 người được
khỏi bệnh chỉ có một người Sa-ma-ri biết trở lại tôn vinh Thiên Chúa
và tạ ơn Đức Giê-su. Người đã trách những kẻ còn lại và nói với
người Sa-ma-ri : “Lòng tin của anh đã cứu chữa anh”.
3. CHÚ THÍCH :
- C 11-13 : + Trên
đường lên Giê-ru-sa-lem : Đây là lần
thứ ba thánh Lu-ca nói tới việc Đức Giê-su đi lên Giê-ru-sa-lem (Lc
9,51;13,32). Thành Giê-ru-sa-lem là đích điểm của cuộc hành trình, và
cũng là nơi kết thúc cuộc đời Đức Giê-su trước khi Tin mừng được rao
giảng đi khắp thế giới (x. Lc 24,47). + Đức Giê-su đi qua biên giới
giữa hai miền Sa-ma-ri và Ga-li-lê : Để lên
Giê-ru-sa-lem, phải đi ngang qua vùng đồng bằng sông Gio-đan và thành
Giê-ri-khô (x. Lc 18,35). + Người vào một làng kia thì có mười
người phong hủi đón gặp Người : Để tránh cho
nhiều người khỏi bị lây bệnh, Luật Mô-sê buộc những người bệnh cùi
phải sống cách xa chỗ ở của dân chúng (x. Lc 13,46). + Họ dừng
lại đằng xa : Bệnh cùi không những là bệnh đáng
sợ về thể xác, mà còn được coi là hình phạt của Đức Chúa dành cho
những tội nhân (x. Đnl 28,27). Thời xưa vì khoa học chưa tiến bộ, nên
khi thấy một số triệu chứng nghi ngờ trên da bệnh nhân, các tư tế dễ
hiểu lần là họ bị mắc bệnh này (x. Lv 13,9-17). Người mắc bệnh phong
cùi bị buộc phải mặc áo rách, xõa tóc, che râu và khi thấy có
người đến gần thì phải kêu lên “Ô uế! Ô uế!” để người ta biết mà
tránh xa (x. Lv 13,45). + “Lạy Thầy Giê-su, xin dủ lòng thương
chúng tôi” : Chữ Thầy ở
đây bày tỏ một lòng tin tưởng sâu xa. Chữ này chỉ thấy trong Tin mừng
Lu-ca và do các môn đệ sử dụng (x. Lc 5,5; 8,24.45). Mười người cùi
này đã làm trái với quy định của Lề Luật, vì họ tin vào tình thương
của Đức Giê-su dành cho bệnh nhân.
- C 14-16 : + “Hãy đi trình diện với các tư
tế” : Thay vì
trực tiếp chữa bệnh, Đức Giê-su lại ra lệnh cho họ
đi trình diện với các tư tế, để được các vị này khám xét và công nhận họ
đã được khỏi bệnh cùi (x. Lv 13,49). Và quả thật, nhờ tin vào Lời Đức Giê-su
mà các người cùi đang khi đi đường đã được lành sạch. Qua phép lạ này,
Đức Giê-su chứng tỏ Người vừa là Đấng quyền năng, lại vừa trung
thành tuân giữ Lề luật (x. Lv 14,2-3). + Lớn
tiếng tôn vinh Thiên Chúa : Lu-ca thích
ghi nhận thái độ tôn vinh Đức Chúa của người nhận được phép lạ (x.
Lc 5,25-26; 7,16). + Anh ta lại là người
Sa-ma-ri : Người Do
thái khinh thường người Sa-ma-ri. Thế nhưng ở đây chỉ một người Sa-ma-ri
biết ơn để quay trở lại với Đức Giê-su mà tôn vinh Thiên Chúa. Điều này
cho thấy Đức Giê-su đến cứu chuộc mọi người không phân biệt Do thái
hay dân ngoại.
- C 17-19 : + “Không phải cả mười người đều
được sạch sao ?” : Đức Giê-sumuốn cả 10 người đều
trở lại. Nhưng chỉ có người Sa-ma-ri. Chín người kia là người Do thái
đã không trở lại cám ơn, có lẽ do không có thói quen ấy hoặc do họ
nghĩ mình là dân ưu tuyển, có quyền đòi Chúa phải ban ơn và không
cần phải cám ơn Người. + “Đứng
dậy về đi ! Lòng tin của anh đã cứu chữa anh” : Đức Giê-su tỏ
lòng ưu ái đặc biệt đối với người Sa-ma-ri ngoại đạo, vì anh đã bày
tỏ lòng biết ơn. Người cho biết : ơn cứu độ được ban cho người ta không
căn cứ trên nguồn gốc Do thái hay dân ngoại, nhưng căn cứ trên lòng tin.
Một lòng tin thực sự phải được biểu lộ, không những bằng lời xin ơn,
mà còn bằng việc cảm tạ tôn vinh Chúa sau khi được ơn suốt cả cuộc
đời.
4. CÂU HỎI : 1) Luật Mô-sê quy định về sinh họat
của các người bị bệnh phong cùi ra sao ? 2) Mười người phong cùi đã
cầu xin với Đức Giê-su thế nào ? 3) Qua việc ra lệnh cho mười người
cùi đi trình diện với tư tế, Đức Giê-su cho thấy quan điểm của Người
đối với Luật Mô-sê ra sao ? 4) Câu nào cho thấy Đức Giê-su muốn người
ta phải tỏ thái độ biết ơn Thiên Chúa ? 5) Ta phải tạ ơn thế nào khi
được ơn Chúa ban nhờ lời chuyển cầu của Đức Mẹ và các thánh ?
II. SỐNG LỜI
CHÚA :
1. LỜI CHÚA : “Không phải
cả mười người đều được sạch sao? Thế thì chín người kia đâu ? Sao không
thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại đạo này ? ” (Lc
17,17-18).
2. CÂU CHUYỆN :
1) NGUỒN GỐC LỄ TẠ ƠN TẠI HOA KỲ :
Hằng năm, cứ vào những ngày cuối của tháng 11 người Mỹ có
thói quen mừng lễ Tạ ơn gọi là THANKSGIVING. Nguồn gốc Lễ Tạ ơn này như sau : Trên con tàu Mayflower mang theo 102 người đầu tiên
từ Anh. Do bị đàn áp về tín ngưỡng tôn giáo, họ đã di cư đến miền đất Mỹ tự do.
Trong cuộc hành trình họ gặp nhiều gian nan khốn khó. Chính các cơn giông bão,
cái đói và rét đã làm cho 46 người trên thuyền bị thiệt mạng, đến nỗi thuyền
trưởng nản chí muốn quay đầu trở lại nước Anh. Nhưng mọi người trên thuyền khi
được hỏi ý kiến lại muốn tiếp tục cuộc hành trình. Cuối cùng Chúa đã cho họ đặt
chân được đến miền đất Mỹ tự do. Nhưng trên vùng đất mới khai phá, họ lại
gặp nạn hạn hán khiến bị mất mùa, họ lại hiệp nhau cầu xin Chúa giúp. Chúa đã
cho dân da đỏ hướng dẫn họ biết kỹ thuật trồng cấy cây lúa hợp thổ nhưỡng nên họ
đã đạt được mùa gặt bội thu. Năm 1621, để tỏ lòng biết ơn Thiên Chúa đã cho họ sống sót qua các cơn phong ba trên biển cả và còn ban
lương thực nuôi sống trong vùng đất mới tự do, những người di cư đã tổ chức Lễ
Tạ ơn Chúa kéo dài ba ngày. Đồ ăn trong lễ này đơn giản chỉ gồm các món gà tây,
khoai tây và bí ngô. Về sau, mỗi năm cứ đến thứ năm của tuần lễ thứ tư trong
tháng 11, người Mỹ đều tổ chức ăn mừng Lễ Tạ Ơn trên phạm vi cả nước.
2) TẠ ƠN CHÚA KHI LÀM VIỆC :
Thi
sĩ LA-MÁC-TIN (Lamartine),
người Pháp đã kể lại một giai thoại vui như sau : một hôm khi
đi ngang qua một cánh rừng, ông chợt nghe thấy một âm thanh lạ : cứ kèm mỗi
tiếng búa đập đá chan chát là câu nói “Tạ ơn Chúa !”. Thi sĩ tò mò đến gần thì
thấy một người thợ đá đang miệt mài làm việc. Cứ mỗi lần gõ búa nện vào phiến
đá trước mặt là ông lại thốt ra câu nói “Tạ ơn Chúa !”. Thi sĩ nấn ná đến gần
hỏi chuyện, bấy giờ ngưởi thợ đá mới giải thích như sau : ”Tôi đang tạ
ơn Chúa !” Ngạc nhiên về lòng tin của một người mà cuộc sống xem ra khá vất vả,
thi sĩ liền bảo ông kia : “Giả như bác được giầu có thì tôi hiểu
tại sao bác luôn “Tạ ơn Chúa”. Đàng này Thiên Chúa chỉ nghĩ đến bác có một lần
khi dựng nên bác trong lòng mẹ. Sau đó Ngài chỉ ban cho bác một cái búa này và
không còn ngó ngàng gì
tới bác nữa để bác phải hằng ngày vất vả đập đá. Vậy tại sao bác lại
cứ phải tạ ơn Ngài như thế ?”
- Ông nghĩ rằng
Chúa chỉ nghĩ đến tôi có một lần thôi hay sao ? Người thợ đá hỏi lại.
- Dĩ nhiên –
Lamartine nhắc lại : “Chúa chỉ nghĩ đến bác có một lần mà thôi
!”
Bấy giờ người
thợ đập đá liền nói với ông khách :
- Ông nói như
vậy cũng phải thôi. Nhưng ông cũng hãy nghĩ lại mà xem : Thiên Chúa vô
cùng lớn lao lại thương nghĩ đến một người thợ đá thấp hèn như tôi, và cho dù
Ngài chỉ nghĩ đến tôi một lần mà thôi, lại không đủ để tôi phải tạ ơn Ngài luôn
mãi hay sao ?”.
Nói xong, người
thợ đá bỏ mặc ông thi sĩ đứng đó, rồi quay lại vừa đập đá vừa tiếp tục nói : “Tạ ơn Chúa
!”; “Tạ ơn Chúa !”; “Tạ ơn Chúa !”…
3) TẠ ƠN CHÚA LÚC CUỐI NGÀY :
BAI-ƠN ĐEO
(Byron Dell) kể lại câu chuyện liên quan đến ông hồi còn nhỏ như sau : “Tôi đã lớn
lên tại một nông trại miền Nê-bát-ca (Nebraska). Khi lên 8 tuổi, tôi có
nuôi một con ngựa nhỏ tên là Phít-ki (Frisky). Một buổi sáng kia, khi
tôi đang ngồi trên lưng con ngựa thân yêu và tiến đến gần mấy con bò
cái đang ăn cỏ, thì bỗng nhiên chú ngựa con tôi đang cưỡi nổi hứng
lên, và vùng chạy như điên mà tôi không sao ghìm cương cho nó đứng lại
được. Mấy lần tôi sắp bị té lăn xuống đất, nhưng may sao tôi đã kịp
gượng ngồi lại được trên yên ngựa. Ba tôi cùng mấy người giúp việc
vội vàng leo lên mấy con ngựa khác đuổi theo. Sau mấy cây số băng rừng
lội suối. Khi bắt kịp tôi, ông nắm chặt giây cương con ngựa của tôi và
bắt nó phải dừng lại. Sau đó ba tôi bồng tôi sang ngồi trên yên ngựa
của ông và dắt con ngựa của tôi chạy theo phía sau. Nó ngoan ngoãn
theo chân con ngựa của chúng tôi quay về nông trại. Tối hôm đó, ba tôi
đã theo tôi lên tận chỗ tôi nằm trên gác. Ông yêu cầu tôi cùng ông quì
trên sàn cạnh giường để tạ ơn Chúa vì Chúa đã cho tôi được an toàn
sau sự cố ban chiều. Sau đó ông đã dâng một lời nguyện tự phát để
cảm tạ Chúa thay cho tôi”.
Biến cố ấy
xảy ra cách đây đã 55 năm. Thế mà Bai-ơn vẫn không bao giờ quên được.
Nó làm cho ông cảm thấy xúc động và cảm phục ba ông rất nhiều. Nhất
là biến cố đó đã dạy cho Bai-ơn bài học về lòng biết ơn đối với
Chúa. Từ ngày ấy, mỗi tối trước khi đi ngủ, ông đều quì bên giường
thưa với Chúa một lời cầu nguyện tự phát để cám ơn Người đã ban
các ơn lành cho ông trong một ngày qua, và cầu xin Chúa gìn giữ hồn
xác mình qua đêm bình an.
4) PHẦN THƯỞNG CỦA LÒNG
BIẾT ƠN :
ĐA-VÍT đang đi
đường thì gặp một người ăn xin. Anh cho người ấy một số tiền rồi tiếp tục đi,
lòng rất sung sướng. Nhưng chỉ một lát sau, anh cảm thấy bực bội khi chợt nhớ
là hồi nãy người ăn xin kia đã không nói lời cám ơn anh. Anh đem chuyện ấy kể
cho một vị Rab-bi nghe. Sau khi chăm chú lắng nghe, vị rab-bi hỏi :
- Khi anh cho
tiền người ăn mày, anh thấy thế nào ?
- Con cảm thấy
lòng mình rất vui.
- Thế đó không
phải là phần thưởng dành cho con rồi hay sao ?
- Nhưng con
nghĩ rằng dù sao thì người ấy cũng phải nói lời cám ơn con mới phải.
- Thế con đã
nói lời cám ơn Chúa chưa ?
- Tại sao con
lại phải cám ơn Chúa ?
- Vì Chúa đã
ban cho con cơ hội trở thành dụng cụ để Ngài thực hiện tình thương của Ngài là con thay Ngài trợ giúp cho
một người đang bị khốn khổ. (FM)
3. SỐNG LỜI CHÚA : Bạn có ý
kiến thế nào về câu nói sau : “Tất cả đều là hồng ân : Cuộc đời của chúng ta, dù được may
lành như ý hay gặp rủi ro trái ý cũng đều không ngòai ý Chúa quan
phòng, và đều mang lại ích lợi cho phần rỗi đời đời của ta. Nên ta
phải luôn nói lời cảm tạ tri ân Chúa” ?
4. SUY NIỆM :
Biết ơn là thái
độ của một người có giáo dục và nhân cách. Người xưa đã dạy về lòng hiếu thảo
biết ơn cha mẹ như sau : ”Uống nước nhớ nguồn; Làm con phải hiếu; Công cha như núi Thái Sơn;
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra”… Về phạm vi đức tin, người
tín hữu cũng cần ý thức về công ơn vô cùng lớn lao của Thiên Chúa, để từ đó biết tỏ lòng biết ơn Ngài giống như đứa con hiếu thảo
biết ơn cha mẹ. Vậy tại sao chúng ta lại phải tỏ lòng biết
ơn người làm ơn cho mình ? Ích lợi của sự biết ơn ra sao ? Mỗi người chúng ta
phải làm gì để tỏ lòng biết ơn Thiên Chúa và tha nhân ?
1) Những lý do của lòng biết ơn :
a) Vì biết ơn là thái độ hợp với đạo làm người : Khi chịu ơn ai chúng ta phải bày tỏ
lòng biết ơn họ mới hợp đạo lý như người ta thường nói : “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây”, “Uống nước nhớ nguồn”.
Kẻ không biết ơn sẽ bị khinh dể và bị coi là phường “vô ơn bạc nghĩa”; “Ăn cháo
đá bát”; “Vắt chanh bỏ vỏ”, “Qua cầu rút ván”…
b) Vì biết ơn là biểu hiện một người có giáo dục, có văn hóa : Một người biết nói lời “cám ơn” cho thấy họ có một nhân cách
tốt, có trình độ văn hóa cao và sẽ được mọi người kính nể như câu ca dao của
người xưa như sau : “Công ai một chút chớ quên. Phiền ai một chút để bên
cạnh lòng”.
2) Ích lợi của lòng biết ơn :
-“Lời nói không mất tiền mua; Lựa
lời mà nói cho vừa lòng nhau” : Thái độ biết ơn sẽ gây được thiện cảm của người
làm ơn và hy vọng sẽ được họ tiếp tục giúp ta sau này.
-Đặc biệt nếu cha mẹ, thầy cô, thủ
trưởng… mà biết nói lời “cám ơn” người dưới như con cái, học trò, người làm
công, nhân viên thuộc cấp… chắc sẽ làm cho họ vui và họ sẽ kể lại cho nhiều
người khác biết về phẩm chất tốt đẹp của chúng ta.
-Tuy
nhiên cần tránh thái độ “công thần”, nghĩa là giúp ai được điều gì thì công bố
cho mọi người được biết và đòi người
chịu ơn phải đền ơn đáp nghĩa cho mình. Chúng ta nên coi việc giúp đỡ tha nhân
là một nhiệm vụ phải làm mà không cần sự trả ơn của họ, thì người chịu ơn sẽ
lại càng cảm phục về lòng khiêm hạ của chúng ta, và chính Chúa sẽ thay họ trả
ơn cho chúng ta trước tòa phán xét sau này, như lời Chúa Giê-su : “Khi đã làm tất cả những gì theo lệnh phải làm, thì hãy nói : Chúng tôi là những đầy tớ vô dụng. Chúng tôi đã chỉ làm việc
bổn phận đấy thôi” (Lc 17,10).
3) Hãy tạ ơn Thiên Chúa và tha nhân :
a) Tạ ơn Thiên Chúa thể hiện một đức tin chân thành :
- Ngay từ thời Cựu ước, tác giả thánh
vịnh đã dạy loài người phải biết tạ ơn Thiên Chúa như sau : “Hãy tạ ơn Chúa
vì Chúa nhân từ, muôn
ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương” (Tv 118,1). Thời kỳ Xuất
hành, dân Ít-ra-en cũng đã bắt đầu truyền
thống tạ ơn Đức Chúa qua việc dâng lễ vật đầu mùa lên để tạ ơn Ngài (x. Đnl
26,1-10).
- Đến thời Tân ước, Đức Giê-su
nhiều lần nêu gương cầu nguyện tạ ơn Chúa Cha. Chẳng hạn : “Lạy Cha là
Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho bậc khôn
ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé
mọn…” (Mt 11,25-26). Đức Giê-su cũng đòi những ai nhận được ơn phải biết cám ơn
Thiên Chúa như sau : “Không phải cả mười người đều được
sạch sao ? Thế thì chín người kia đâu ? Sao không thấy họ trở lại tôn
vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang này ?” (Lc 17,17-18).
- Hội Thánh Công Giáo cũng biểu lộ
lòng biết ơn Thiên Chúa qua việc cử hành thánh lễ và gọi là Thánh Lễ Tạ Ơn. Trong thánh lễ, Hội Thánh dâng lời tạ ơn Thiên
Chúa bằng việc dâng bánh rượu là kết quả của lao công của con người và sau đó
bánh rượu ấy sẽ trở thành Mình Máu thánh Chúa Ki-tô khi truyền phép. Rồi nhờ lễ
vật rất cao trọng này, Hội Thánh sẽ dâng lên Chúa Ba Ngôi tâm tình cảm tạ và
xin ơn qua lời kinh Vinh Tụng Ca : “Chính nhờ Người, với Người và trong
Người, mà mọi danh dự và vinh quang đều quy về Chúa là Cha toàn năng, trong sự
hiệp nhất của Chúa Thánh Thần đến muôn đời”. - AMEN.
b) Những cách thế biểu lộ lòng biết ơn :
- Cuộc sống chúng ta được dệt bằng muôn hồng ân của Chúa : Có những ơn
do Thiên Chúa trực tiếp ban và cũng có những ơn Chúa ban cho chúng ta nhờ tay
người khác. Vậy chúng ta cần phải làm gì khi nhận được những món quà ấy ? Thánh Bê-na-đô đã dạy : ”Tôi xin anh em điều này là hãy tránh thói xấu
lớn lao là sự vô ơn. Chớ gì đời chúng ta là một lời cám ơn liên lỉ... Tuy nhiên
chúng ta đừng chỉ nói lời cám ơn suông, nhưng hãy biết sử dụng cách hữu
ích những ơn lành Chúa ban. Đó là điều Chúa đòi hỏi
chúng ta”.
- Phải biết cám ơn bằng hành động : Bài đọc I trong
thánh lễ hôm nay cho thấy lòng biết ơn phải được biểu lộ bằng hành động cụ thể noi gương viên
tướng Na-a-man người xứ A-ram biết ơn ngôn sứ Ê-li-sa (x. 2 V 5,14-17).
- Phải vui vẻ đón
nhận mọi điều xảy đến : Cám ơn Chúa vì những điều may lành như ý
của mình thì dễ, nhưng cám ơn về những điều rủi ro trái ý mình lại không dễ
chút nào. Vì thế chúng ta cần tập cám ơn Chúa về mọi điều xảy đến cho ta: vui
cũng như buồn, thành công cũng như thất bại, an lành khỏe mạnh cũng như rủi ro
tật bệnh trái ý… Vì những điều đó đều hữu ích cho phần rỗi đời đời của chúng
ta, như thánh nữ Tê-rê-sa Hài Đồng Giê-su đã xác quyết : "Tất cả
đều là hồng ân".
- Tập thành thói quen cám ơn Chúa và tha nhân : Cha mẹ công giáo cần tập cho con
cái biết cám ơn những người làm ơn cho mình ngay từ khi chúng bập bẹ nói. Mỗi tối, chúng ta cũng hãy nhớ lại những ơn tinh thần vật chất nhận được
trong ngày, rồi dâng lời tạ ơn Chúa như thánh Phao-lô đã viết : "Tôi hằng cảm tạ Thiên Chúa của tôi vì
anh em, về ân huệ Người đã ban cho anh em nơi Đức Ki-tô Giê-su" (1
Cr 1,4).
4. NGUYỆN CẦU :
LẠY CHÚA
GIÊ-SU, Thánh I-nha-xi-ô đã nói : “Tội lớn nhất nơi con người là tội
vô ơn”. Đời con được dệt bằng biết bao hồng ân của Chúa mà nhiều khi
con chưa ý thức được. Có lẽ chẳng khi nào con tạ ơn vì đã được Chúa
cho được làm người và làm con Chúa. Có lẽ chưa khi nào con tạ ơn vì
Chúa đã ban cho con khí trời để thở, cơm ăn nước uống nuôi dưỡng con,
vũ trụ thiên nhiên tươi đẹp để giúp con được sống vui tươi. Cũng chưa
bao giờ con tạ ơn Chúa vì con đã được Chúa ban cho có sức khỏe, thân
xác lành lặn, tâm hồn bình an... Quả thực, đó là những ơn to lớn mà
con lại cho là chuyện đương nhiên, nên đã coi thường và đã vô ơn với
Chúa. Từ nay xin Chúa cho con nhận ra những ơn lành Chúa đã thương ban
và không ngừng dâng lời cảm tạ tri ân Chúa. Tri ân bằng lời ca tụng
Chúa và nhất là bằng việc sử dụng ơn lành Chúa ban để mưu ích cho phần rỗi
đời đời của con và mang lại hạnh phúc cho mọi người.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
LM ĐAN VINH –
HHTM