CN TRUYỀN GIÁO – CN 30 TN C

Mt 28,16-20.

LOAN BÁO TIN MỪNG TRONG THẾ GIỚI HÔM NAY

I.HỌC LỜI CHÚA

1.TIN MỪNG : Mt 28,16-20.

(16) Mười một môn đệ đi tới miền Ga-li-lê, đến ngọn núi Đức Giê-su đã truyền cho các ông đến. (17) Khi thấy Người, các ông bái lạy, nhưng có mấy ông lại hoài nghi. (18) Đức Giê-su đến gần, nói với các ông : “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. (19) Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. (20) Dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế.

2.Ý CHÍNH :

Trong bài Tin mừng của thánh Mát-thêu hôm nay, Đức Giê-su Phục Sinh hẹn các Tông đồ đến một ngọn núi tại miền Ga-li-lê. Ở đó sau khi tuyên bố được Chúa Cha trao toàn quyền trên trời dưới đất, Chúa Phục Sinh đã chỉ thị cho các Tông đồ đi khắp thế gian thâu nạp môn đồ cho Người, làm phép rửa cho họ “Nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần”. Người cũng hứa sẽ ở cùng các ông mọi ngày cho đến tận thế.

3.CHÚ THÍCH :

- C 16-17 : + Mười một môn đệ : Đây là Nhóm Mười Hai, nhưng thiếu Giu-đa, kẻ phản bội, và lúc đó Mát-thi-a chưa được bổ sung vào danh sách để thế chỗ Giu-đa (x. Cv 1,15-26). Nhóm này là Tông Đồ Đoàn được trao quyền lãnh đạo Hội Thánh. Còn về Giu-đa Ít-ca-ri-ốt : khi thấy Thầy Giê-su sắp bị kết án tử hình, anh ta đã hối hận, liền đem ba mươi quan tiền trả lại cho các đầu mục Do thái nhưng bị từ chối. Giu-đa thất vọng ném tiền vào gian cung thánh Đền thờ rồi đi thắt cổ tự tử (x. Mt 27,3-5). + Đi tới miền Ga-li-lê : Tức là đến miền đất dân ngoại theo chỉ thị của Chúa Phục Sinh, qua bà Ma-ri-a Mác-đa-la (x. Mt 28,10), và cũng để noi gương Đức Giê-su đã khởi đầu rao giảng Tin Mừng Nước Trời tại xứ Ga-li-lê (x. Mt 4,12-17), + Đến ngọn núi Đức Giê-su đã truyền cho các ông đến : Ngày nay người ta không thể xác định đây là núi nào. Nhưng có lẽ Mát-thêu chỉ muốn nói đến ngọn núi với ý nghĩa tượng trưng: Núi là nơi Thiên Chúa gặp gỡ và mặc khải cho loài người. Chẳng hạn : Đức Chúa đã trao Thập Giới cho Mô-sê trên núi Khô-rép (x. Xh 24,13.15.18). Đức Giê-su cũng đã công bố Hiến Chương Nước Trời hay Tám Mối Phúc Thật trên núi, gọi là “Bài Giảng Trên Núi” (x. Mt 5,1-7,27). + Thấy Người, các ông bái lạy : Sau nhiều lần hiện ra để củng cố niềm tin cho môn đệ, trước khi về trời Chúa Phục Sinh đã hiện ra để trao cho các ông sứ mệnh loan Tin mừng đi khắp thế gian. Cử chỉ bái lạy nói lên các ông đã tin Chúa Giê-su là “Đấng Cứu Thế, Con Thiên Chúa”. + Nhưng có mấy ông lại hoài nghi : Câu này xem ra mâu thuẫn với thái độ bái lạy vừa nói. Thực ra, hoài nghi là thái độ phải xảy ra nơi các môn đệ trước khi các ông đạt được đức tin hoàn hảo. Chắc là Mát-thêu muốn nói đến sự hoài nghi đã xảy ra trước đó mà ngài chưa lần nào đề cập đến. Như vậy đây chỉ là một sự trục trặc về lối hành văn, chứ không mâu thuẫn về mặt tư tưởng. Ngoài ra cũng có người cho rằng: Vì đây là cuộc hiện ra để “trao sứ mệnh” cho Nhóm Mười Một đại diện Hội Thánh, nên sự hoài nghi ở đây ám chỉ sự hòai nghi nói chung của Hội Thánh xưa nay: Mầu nhiệm Phục Sinh tuy là một sự thật hiển nhiên, nhưng bao giờ cũng vẫn có kẻ còn hoài nghi.

- C 18-19 : +Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất : Lúc khởi đầu sứ mệnh, cũng trên núi cao, Đức Giê-su đã từ chối quyền hành trên các nước thế gian do Xa-tan hứa ban (x. Mt 4,8-10). Nhưng giờ đây Người tuyên bố đã được Thiên Chúa trao toàn quyền trên trời dưới đất, ứng nghiệm lời tuyên sấm của Ngôn sứ Đa-ni-en về sứ mệnh của Con Người như sau : “Đấng Lão Thành trao cho Người quyền thống trị, vinh quang và vương vị; Muôn người thuộc mọi dân tộc, quốc gia và ngôn ngữ đều phải phụng sự Người. Quyền thống trị của Người là quyền vĩnh cửu, không bao giờ mai một; Vương quốc của Người sẽ chẳng hề suy vong, khác hẳn với mọi vương quốc. Nó sẽ ăn hết toàn cõi đất, sẽ dẫm nát và nghiền tan” (Đn 7,14). + Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ : Hội Thánh phải dùng quyền Đức Giê-su ban để nhân danh Người mà làm cho muôn dân trở thành môn đệ của Người. Trước hết là dân Do Thái (x. Mt 10,5-6), rồi đến mọi dân nước trên thế giới (x. Mt 8,11). + Làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần :  Để người ta trở nên môn đệ Đức Giê-su, các Tông đồ phải làm phép rửa tái sinh họ bằng nước và Thần Khí (x. Ga 3,3.5). Phép rửa được cử hành nhân danh Chúa Ba Ngôi là Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần (x. Mt 28,19).

- C 28,20 : + Dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em : Sứ mệnh các Tông đồ gồm cả quyền dạy dỗ các tín hữu cho tới khi Hội Thánh đạt tới tình trạng viên mãn (x. Ep 1,23).+ Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế : Chúa Phục Sinh hứa sẽ luôn ở trong Hội Thánh cho đến ngày tận thế nhờ Chúa Thánh Thần và qua các vị mục tử, để giúp Hội Thánh chu toàn sứ mệnh “được sai đi”. Qua đó Đức Giê-su chứng tỏ là “Đấng Em-ma-nu-en : Thiên Chúa ở cùng chúng ta” (Mt 1,23).

4. CÂU HỎI : 1)Tại sao chỉ có mười một Tông đồ hiện diện lúc Chúa lên trời ? 2) Số phận của Giu-đa Ít-ca-ri-ốt thế nào sau khi phạm tội phản nộp Thầy ? 3) Tại sao Chúa Phục Sinh  truyền cho các Tông đồ trở về Ga-li-lê ? 4) Ngọn núi Chúa truyền cho các Tông đồ đến là núi nào ? 5) Mấy kẻ còn hoài nghi gồm những ai và họ hoài nghi điều gì ? 6) Đức Giê-su đã từ chối quyền hành trên các nước thế gian do Xa-tan hứa ban vào lúc nào ? 7) Đức Giê-su đã được ai trao toàn quyền trên trời dưới đất, ứng nghiệm sấm ngôn của vị Ngôn sứ nào và nội dung lời sấm đó thế nào ? 8) Sau khi thâu nạp môn đệ, Hội Thánh phải tiếp tục làm gì cho họ ? 9) Làm thế nào để loan báo Tin Mừng cách hữu hiệu cho lương dân hôm nay ?

II.SỐNG LỜI CHÚA

1. LỜI CHÚA : “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế.

2. CÂU CHUYỆN :

1) DẤN THÂN LOAN BÁO TIN MỪNG NHƯ THÁNH PHAN-XI-CÔ XA-VI-Ê :

Phan-xi-cô Xa-vi-ê chào đời vào năm 1506 tại Tây Ban Nha trong một dòng tộc quý phái. Khi cảm nhận sâu sắc bởi câu Lời Chúa : “Được lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn nào được ích gì” (Lc 9,25), ngài đã gác lại những khát vọng hoài bảo của mình và trở thành cánh tay cộng tác đắc lực với thánh I-nha-xi-ô trong việc truyền giáo theo lệnh Chúa truyền trước khi về trời :  “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế.” (Mt 28,18-20).

Trong sứ vụ được sai đi rao giảng cho vùng Á Châu rộng lớn, thánh nhân đã mang về rất nhiều linh hồn cho Chúa Ki-tô bằng thái độ hiền lành, ứng xử khiêm tốn lịch sự và sống kết hợp thâm sâu với Thiên Chúa nên ngài đã gặt hái được nhiều hoa trái là đưa được rất nhiều linh hồn về cho Chúa.

Thánh nhân qua đời ngày 03/12/1552, được Đức Giáo Hoàng Grê-gô-ri-ô XV tuyên thánh cùng với thánh I-nha-xi-ô vào năm 1622 và được đặt làm bổn mạng các xứ truyền giáo.

Nhìn vào tấm gương của nhà truyền giáo tài ba lỗi lạc này có nhiều nét giống với vị thánh tông đồ dân ngoại Phao-lô: Phan-xi-cô có tấm lòng nhiệt huyết dồi dào. Một ngọn lửa truyền giáo lúc nào cũng bừng cháy trong lòng, thôi thúc thánh nhân đem ánh sáng đức tin loan truyền cho mọi người bằng việc rao giảng Tin Mừng. Dù gặp vô vàn khó khăn thử thách về cách thức ăn ở tại vùng đất xa lạ, khác biệt ngôn ngữ, khác về văn hóa … Nhưng trên tất cả, ngài luôn sẵn lòng đón nhận và quyết tâm vượt qua, “Miễn là Đức Ki-tô được rao giảng” (Pl 1,18).

Chúng ta hãy xin Chúa đốt lên trong lòng chúng con ngọn lửa tông đồ truyền giáo để noi gương thánh Phan-xi-xô, can đảm ra khỏi ranh giới an toàn, mang hạt giống Lời Chúa đến gieo vào lòng mọi người chung quanh bằng việc đi bước trước để làm quen, bằng những hành động yêu thương cụ thể, bằng việc rao giảng Lời Chúa kèm theo lời cầu nguyện chân thành cho mọi người mà chúng ta có dịp gặp gỡ tiếp xúc.

2) HY SINH CẦU NGUYỆN NHƯ THÁNH NỮ TÊ-RÊ-XA HÀI ĐỒNG GIÊ-SU :

Tê-rê-xa sinh ngày 02 tháng 01 năm 1873 tại Alecon, Normandie, Pháp. “Tê-rê-xa Hài Ðồng Giê-su” là tên nhận khi khấn Dòng. Tê-rê-xa mồ côi mẹ từ năm bốn tuổi, được cha là ông Louis Martin săn sóc và giáo dục chu đáo. Dù ở tuổi vị thành niên chưa được phép tu Dòng, nhưng Tê-rê-xa năm 15 tuổi đã được Ðức Giáo Hoàng Lêô 13 đặc cách cho vào tu trong Dòng kín Carmêlô thành Lisieux, nước Pháp.

Tê-rê-xa chỉ là một nữ tu hèn mọn quanh năm suốt tháng đóng khung trong bốn bức tường tu kín cho đến khi lìa trần ngày 30-9-1897 và thời gian tu mới được 9 năm. Vậy mà chỉ 28 năm sau, năm 1925, Tê-rê-xa đã được Ðức Giáo Hoàng Piô XI tôn phong lên bậc Hiển Thánh. Hai năm sau, lại được đặt làm Quan Thày các Nhà Truyền Giáo và các Xứ Truyền Giáo, cùng với thánh Phan-xi-cô Xa-vi-ê. Gần đây Thánh Giáo Hoàng Gio-an Phao-lô II còn nâng Tê-rê-xa lên hàng Tiến Sĩ Hội Thánh vào năm 1997.

Thánh nữ Tê-rê-xa Hài Ðồng Giê-su chỉ là một thiếu nữ hèn mọn, làm các việc tầm thường trong môi trường tu viện khép kín, không lập được thành tích nào nổi bật về truyền giáo. Nhưng “đằng sau những việc nhỏ bé hằng ngày ấy lại ẩn chứa một tình yêu cao cả”: Yêu mến Chúa, rồi từ Chúa, yêu thương các nhà truyền giáo và các xứ truyền giáo. Chị đã làm việc loan báo Tin Mừng bằng lời cầu nguyện, bằng những hy sinh hãm mình, giống như “những bông hồng nhỏ” dâng lên Chúa Hài Ðồng để cầu xin cho lương dân sớm được ơn nhận biết tin yêu Chúa.

Thánh Tê-rê-xa Hài Ðồng Giê-su, được tôn phong là Tiến Sĩ Hội Thánh, Bổn Mạng các Xứ Truyền Giáo chính nhằm nêu gương sáng về cách thức truyền giáo cho con người thời đại hôm nay. Đó là truyền giáo bằng một cuộc sống tin yêu giống như “Con thơ phó thác” trong bàn tay quan phòng của Thiên Chúa.

3) SỐNG BÁC ÁI PHỤC VỤ NHƯ MẸ TÊ-RÊ-SA CAN-QUÝT-TA :

Mẹ Tê-rê-xa Can-quýt-ta đã nêu gương truyền giáo bằng việc chia sẻ ngọn lửa yêu thương cụ thể. Mẹ không giảng Tin Mừng bằng lời nói, nhưng bằng tình yêu kèm theo cử chỉ thân ái với những người nghèo đói bệnh tật và bị bỏ rơi. Mẹ cũng không chủ trương yêu mọi người chung chung, nhưng là yêu từng con người cụ thể gặp được trong cuộc sống. Mẹ nói : “Đối với chúng tôi, điều quan trọng là yêu thương từng người một. Để thương yêu một người thì trước tiên phải đến gần người ấy… Tôi chủ trương một người đến với một người vì mỗi người đều là hiện thân của Đức Ki-tô… Người đó phải là con người duy nhất trên thế gian trong giây phút đó.” Với tâm tình này, Mẹ Tê-rê-xa đã nhận được sự cảm phục của nhiều người trên thế giới. Ngày nay, công việc truyền giáo của Dòng Thừa Sai Bác Ái của mẹ Tê-rê-sa được phân thành nhiều phương diện phục vụ như sau :

- Việc rao giảng Tin Mừng : qua những lớp Giáo Lý, học hỏi Kinh Thánh, nhóm hoạt động Công Giáo, và thăm viếng bệnh nhân, người già và các tù nhân.

- Chăm Sóc Y Tế : qua các nhà thương, bệnh viện người cùi, những em bị tật nguyền tâm lý và thể lý, những người hấp hối và tuyệt vọng, người bị bệnh AIDS và ho lao, những trung tâm suy dinh dưỡng và những bệnh xá lưu động.

- Việc Giáo Dục : qua các trường tiểu học trong các khu nhà nghèo, lớp dạy may cắt, lớp thương mại, lớp cho người tàn tật, lớp mẫu giáo ở làng, và những chương trình giữ trẻ.

- Dịch Vụ Xã Hội : qua chương trình an sinh và giáo dục trẻ em; nhà cho người vô gia cư, giúp con nghiện cai rượu và thuốc lá; nhà cho những người mẹ không chồng; nơi tạm cư ban đêm; trung tâm hướng dẫn phương pháp điều hoà sinh sản.

- Dịch Vụ Cứu Tế : qua những nhà chia sẻ thực phẩm và phân phát quần áo cho những người nghèo đói…

3. THẢO LUẬN: Theo các cách truyền giáo của thánh Phan-xi-cô Xa-vi-ê, thánh nữ Tê-rê-xa Hài Đồng Giê-su, thánh nữ Tê-rê-xa Can-quýt-ta… Bạn thích cách truyền giáo của vị thánh nào nhất ? Tại sao ?

4. SUY NIỆM :

1) SỨ VỤ TRUYỀN GIẢNG TIN MỪNG :

a) Chúa Giê-su đã truyền cho các môn đệ trước khi lên trời : “Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần” (Mt 28,19). Đây là một sứ vụ đẹp lòng Thiên Chúa như ngôn sứ I-sai-a đã thốt lên : "Đẹp thay, những bước chân đi truyền rao Tin Mừng ơn cứu độ". Thánh Phao-lô Tông đồ dân ngoại cũng viết : “Làm sao họ kêu cầu Đấng họ không tin ? Làm sao họ tin Đấng họ không được nghe ? Làm sao mà nghe, nếu không có ai rao giảng ? Làm sao rao giảng, nếu không được sai đi ?” (Rm 10,14-15). Nơi khác, ngài còn khẳng định : “Khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng” (1 Cr 9,16).

b) Các tông đồ phải rao truyền mầu nhiệm tử nạn và phục sinh của Chúa Giê-su : Người là Đấng Cứu Thế Con Thiên Chúa, đã từ trời xuống thế làm người, để dạy đường lên trời cho nhân loại là ”Qua đau khổ vào trong vinh quang”. Tông đồ Phao-lô cũng viết : “Trước hết, tôi truyền lại cho anh em điều mà chính tôi đã lãnh nhận, đó là : Đức Ki-tô đã chết vì tội lỗi chúng ta, đúng như Lời Kinh Thánh, rồi Người đã được mai táng, và ngày thứ ba đã trỗi dậy, đúng như Lời Kinh Thánh” (1 Cr 15,3-4).

2) PHẢI TRUYỀN GIẢNG TIN MỪNG THEO CÁCH NÀO ? :

a) Cách truyền giảng của thánh nữ Tê-rê-xa Hài Đồng Giê-su :

- Thánh nữ Tê-rê-xa đã truyền giáo bằng lời cầu nguyện và các việc bác ái hãm mình: Tê-rê-xa không giảng bằng lời nói nhưng bằng lòng ước ao của một con tim cháy lửa yêu mến Chúa, bằng cách làm các việc bổn phận thường ngày bằng một cách thức phi thường, nghĩa là nhằm để làm vinh danh Thiên Chúa và vì phần rỗi các linh hồn.

- Mỗi người chúng ta hôm nay cần noi gương thánh Tê-rê-xa: năng dâng những lời nguyện tắt kèm theo nhưng việc bác ái hãm mình để cầu cho việc truyền giáo : “Lạy Chúa, con xin làm việc hãm mình này để cầu cho một người lương sớm nhận biết tin yêu Chúa và hy vọng sẽ được hưởng ơn cứu độ của Chúa giống như con”.

b) Cách truyền giảng của Mẹ Tê-rê-xa Can-quýt-ta :

- Thánh TÊ-RÊ-XA CAN-QUÝT-TA đã âm thầm loan báo Tin Mừng bằng những cử chỉ nhân ái với những người bệnh tật cùng khổ và bị bỏ rơi. Mẹ đã đi nhiều nơi trên thế giới để thành lập nhiều cộng đoàn tu viện theo lý tưởng thừa sai bác ái của Mẹ, lập ra nhiều nhà mở để tiếp đón các bệnh nhân gần chết đang bị bỏ rơi, không phân biệt tôn giáo mầu da tiếng nói… Việc bác ái từ thiện của Mẹ đã đánh động lương tâm của nhiều người trên thế giới, để cùng xây dựng Trời Mới Đất Mới. không còn đau khổ bệnh tật thù hận chết chóc…

- Mỗi người chúng ta hôm nay cũng phải thể hiện lòng bác ái yêu thương ngay trong gia đình ruột thịt, khu xóm, xứ đạo và môi trường xã hội chung quanh. Không nhất thiết phải làm những việc lớn lao tốn phí nhiều tiền bạc, mà chỉ cần làm những việc nhỏ bé vừa tầm tay của mình như ân cần thăm hỏi, chia sẻ giúp đỡ vật chất tinh thần, phục vụ những người cụ thể bằng những gì mình đang có, hợp tác với những người thiện chí dù khác biệt về chính kiến, tôn giáo… để xây dựng thế giới mới an lành hạnh phúc.

c) Cách truyền giảng của thánh Phan-xi-cô Xaviê :

- Thánh PHAN-XI-CÔ XA-VI-Ê đi truyền giáo ở vùng Đông Á bên Ấn Độ. Trong suốt 10 năm truyền giáo ngài đã đi cả trăm ngàn cây số. Đã rửa tội cho hàng trăm ngàn tân tòng và gầy dựng nhiều cộng đoàn tín hữu khắp nơi. Cuối cùng ngài đã đến đảo Thượng Xuyên Trung quốc. Tại đây ngài ngã bệnh và qua đời ngày 3.12.1552, được phong thánh và được đặt làm bổn mạng các xứ truyền giáo. Ngài là vị truyền giáo vĩ đại cho cuộc truyền giáo thời mới: Ngài hòa nhập vào dân mà ngài muốn mang Tin Mừng đến ; sống nghèo với những người lao động. Ngài hoạt động thật năng nổ cho cuộc truyền đạo và kích thích được tinh thần này ở Âu Châu. Hàng nghìn người đã theo gương ngài để mang Tin Mừng đi muôn phương.

- Mỗi người chúng ta hôm nay cần trang bị cho mình vốn liếng Lời Chúa, nhờ Lời Chúa soi dẫn, chúng ta sẽ đi đến các vùng sâu vùng xa của đồng bào dân tộc, đến với các trại nuôi người già, trại cùi, cô nhi viện, v.v… để thi hành sứ vụ loan Tin Mừng của Chúa, noi gương thánh Phan-xi-cô Xa-vi-ê.

d) Cách truyền giảng của Chúa Giê-su và các Tông đồ :

- Giới thiệu Chúa cho người khác : An-rê sau khi gặp Thầy Giê-su đã dẫn em là Si-mon đến với Đức Giê-su; Phi-lip-phê đã đưa bạn là Na-tha-na-en đến với Đức Giê-su…

- Đi bước trước tiếp cận người lương : Đức Giê-su đã mở lời trước xin người phụ nữ Sa-ma-ri cho uống nước và từ đó đã nói với chị về Nước Hằng Sống. Rồi người phụ nữ này đã về làng đưa dân làng ra gặp Đức Giê-su và mời Người vào giảng Tin Mừng cho cả làng.

- Cần xin ơn Thánh Thần trợ giúp : Noi gương các Tông đồ xưa đã hăng say loan báo Tin Mừng và đem lại nhiều thành quả tốt đẹp nhờ được Thánh Thần biến đổi trong ngày lễ Ngũ Tuần. Còn chúng ta hôm nay cũng cần được ơn Thánh Thần thôi thúc mới hy vọng chu toàn sứ vụ giới thiệu Chúa cho anh em lương dân chung quanh chúng ta.

3) CHU TOÀN SỨ VỤ TRUYỀN GIÁO HÔM NAY ?

- Cần năng cầu nguyện bằng những lời nguyện tắt để được kết hiệp mật thiết với Chúa.

- Góp phần thánh hóa gia đình và xã hội mình đang sống ngày một tốt đẹp hơn : Nhờ biết sống tình bác ái yêu thương cụ thể, chúng ta sẽ làm cho môi trường sống ngày một an toàn sạch đẹp hơn, công bình nhân ái hơn. Cũng cần ý thức đưa đức tin thấm nhập vào phim ảnh, bài hát, kịch nghệ, văn chương, hội họa, điêu khắc… hầu giúp anh em lương dân nhận biết tin yêu Chúa.

- Mỗi ngày quyết tâm đọc kinh Hòa Bình của thánh Phan-xi-cô để xin Chúa biến đổi chúng ta nên khí cụ bình an của Chúa, thành chứng nhân tình yêu của Chúa trước mặt mọi người.

- Hằng tuần dành ít nhất hai giờ để đi thăm những trại mồ côi, nhà dưỡng lão để chia sẻ tình thương cụ thể cho họ, sẵn sàng dấn thân phục vụ những bệnh nhân liệt giường cô đơn, để làm chứng cho Chúa như lời Chúa dạy : “Ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời” (Mt 5,16).

Ðức Phao-lô VI đã dạy : "Con người thời đại ngày nay thích nghe các chứng nhân hơn là những thầy dạy, và nếu họ có nghe thầy dạy thì cũng bởi vì những thầy dạy này là các chứng nhân".

5. LỜI CẦU :

Lạy Chúa Giê-su, Tình Yêu của con, nếu Hội Thánh được ví như một thân thể gồm nhiều chi thể khác nhau, thì hẳn Hội Thánh không thể thiếu một chi thể cần thiết nhất và cao quý nhất là trái tim, một trái tim bừng cháy tình yêu. Chính tình yêu làm cho Hội Thánh hoạt động. Nếu trái tim Hội Thánh vắng bóng tình yêu, thì các tông đồ sẽ ngừng rao giảng, các vị tử đạo sẽ chẳng chịu đổ máu mình...

Lạy Chúa Giê-su, cuối cùng con đã tìm thấy ơn gọi của con chính là tình yêu. Con đã tìm thấy chỗ đứng của con trong lòng Hội Thánh: Nơi trái tim Hội Thánh con sẽ là tình yêu, và như thế con sẽ là tất cả. Vì tình yêu bao trùm mọi ơn gọi trong Hội Thánh. Lạy Chúa, với chỗ đứng Chúa ban cho con, mọi ước mơ của con chắc chắn sẽ được thực hiện.

(Dựa theo lời cầu nguyện của thánh Tê-rê-xa Hài Đồng Giê-su)

LM ĐAN VINH - HHTM

 


Suy Niệm Lời Chúa Năm C