CHÚA NHẬT II MÙA CHAY, C
(Lu-ca 9: 28-36)
Một lần nữa,
ta lại thấy thánh Lu-ca sử dụng khéo léo cách móc nối đoạn Tin Mừng Chúa Giê-su
biến đổi hình dạng với lời Chúa tuyên bố trước đó về những điều kiện để theo Người,
khi ngài mở đầu câu truyện: “Khoảng tám
ngày sau khi nói những lời ấy, Đức Giê-su lên núi cầu nguyện...” Viết như thế, thánh sử muốn ta phải căn cứ
vào những lời Chúa Giê-su đã nói và việc Người lên núi cầu nguyện làm chìa khóa
để hiểu được ý nghĩa của sự kiện Người biến đổi hình dạng. Do đó, ta không thể bỏ qua đoạn Tin Mừng đi
trước câu truyện này. Vậy sau khi nêu
lên những điều kiện phải có để theo Người, Chúa Giê-su khẳng định: “Thầy bảo thật anh em: trong số người có mặt ở đây, sẽ có kẻ sẽ
không phải chết trước khi thấy Nước Thiên Chúa” (Lc 9:27). Có nghĩa là trước khi chết họ đã có thể
“thấy Nước Thiên Chúa” ngay tại đời này rồi.
Đó là những lời Chúa Giê-su nói tám ngày trước khi Người “lên núi cầu
nguyện” và biến đổi hình dạng. Những chi
tiết quan trọng này sẽ soi sáng để ta hiểu được tại sao Chúa tỏ ra hình dạng
vinh hiển.
a)
Thấy Nước Thiên Chúa nghĩa là nhận biết Chúa Giê-su là ai
Bài Tin Mừng Lu-ca Chúa Nhật I mùa
Chay đã trình bày Chúa Giê-su trong hoang địa chịu cám dỗ chối bỏ căn
tính cũng như sứ mệnh của mình và Chúa đã chiến thắng cám dỗ. Đó cũng là cám dỗ của mọi người môn đệ. Vậy mà sau khi Chúa cho các tông đồ biết
Người sắp chịu cuộc Thương khó, thi hành sứ mệnh cứu chuộc tội lỗi loài người,
tức là cho các ông biết rõ chân tính của Người, thì các ông lại không muốn chấp
nhận điều ấy. Đó là lý do về phía các
tông đồ, sở dĩ Chúa Giê-su muốn tỏ ra vinh hiển Người sẽ lãnh nhận sau khi hoàn
tất sứ mệnh của Người Tôi tớ chịu đau khổ là vì Người muốn giúp các ông lấy cái
nhìn đức tin mà nhận biết Người thực sự là ai.
Đối với Tin Mừng Lu-ca, “thấy Nước
Thiên Chúa” nghĩa là nhìn nhận và tuân phục quyền tối cao của Đức Giê-su Phục
Sinh. Hoặc nói theo Phao-lô, thấy Nước
Thiên Chúa có nghĩa là tuyên xưng Đức Giê-su Ki-tô là Chúa (Pl 2:11; Rm
10:9). Hay nói theo suy tư thực tiễn
cho ta, thấy Nước Thiên Chúa ngay tại đời này có nghĩa là ta đã nhận biết Chúa
Giê-su là Đấng nào và có lòng tin vào Chúa Giê-su Phục Sinh. Khi biến đổi hình dạng nên sáng láng, Chúa
Giê-su cho các tông đồ thoáng nhận ra vinh hiển tương lai của Người. Điều này rất cần thiết cho các ông, vì các
ông sẽ không còn nhìn căn tính và sứ mệnh của Chúa Giê-su một cách phiến diện
hoặc tiêu cực nữa, nhưng là một hình ảnh trọn vẹn từ thập giá đến vinh
quang. Các ông sẽ cùng với Chúa lên
Giê-ru-sa-lem, không phải để hồ hởi chứng kiến Người được dân chúng tôn làm vua
trần thế, nhưng là để cùng chịu đau khổ và chịu chết với Người (2 Tm
2:11b-12a), đồng thời cũng để củng cố niềm tin của họ vào sự Phục Sinh vinh
hiển của Người.
Những lời Chúa Giê-su vừa nói với
“mọi người” không chỉ dành cho các tông đồ, nhưng cho hết thảy những ai muốn
làm môn đệ Chúa trong mọi thời mọi nơi.
Ai cũng cần phải “thấy Nước Thiên Chúa,” cần phải nhìn nhận và làm chứng
cho Chúa Ki-tô Phục Sinh trong cuộc sống trần gian của mình. Cuộc biến hình sáng láng của Chúa sẽ phá tan
đi tất cả những nét sai lạc ta thường có về hình ảnh đích thực của Đấng Cứu
Thế, đồng thời cũng củng cố đức tin của ta nơi Người.
b)
“Đang lúc Chúa Giê-su cầu nguyện, dung mạo Người bỗng đổi khác”
Ta đều biết
cầu nguyện giữ vai trò vô cùng quan trọng trong cuộc sống của Chúa Giê-su. Người hằng cầu nguyện với Chúa Cha, cầu
nguyện cho mình, cầu nguyện cho môn đệ và cho cánh đồng truyền giáo. Lần này chắc chắn là Người cầu nguyện cho
chính mình khỏi sa chước cám dỗ, giống như tám ngày trước đây Người đã cầu
nguyện (Lc 9:18) để có sức mạnh thẳng thắn bác bỏ đề nghị của Phê-rô muốn can
gián Người lên Giê-ru-sa-lem thi hành sứ vụ Đấng Ki-tô. Trong lần cầu nguyện này, Người phải “lên
núi” để gặp gỡ Chúa Cha. Người đàm đạo
với ông Mô-sê và ngôn sứ Ê-li-a trước sự hiện diện của Chúa Cha. Nội dung câu chuyện của các Ngài là “cuộc
xuất hành Người sắp hoàn thành tại Giê-ru-sa-lem.” Chúa Giê-su thấy cần phải lập đi lập lại xác tín căn tính và sứ
mệnh đích thực của mình. Quỷ bỏ đi sau
cám dỗ tại hoang địa, chờ đợi thời cơ.
Và đây chính là thời cơ, tức là “giờ của Người đã đến, giờ phải bỏ thế
gian mà về với Chúa Cha” (Ga 13:1) hoặc giờ của “cuộc xuất hành Người sắp hoàn
thành tại Giê-ru-sa-lem.” Càng gần tới
“giờ” thì càng là thời cơ thuận tiện cho Xa-tan. Cơn cám dỗ triền miên về căn tính và sứ mệnh đang tiến gần đến
cao điểm tại Vườn Cây Dầu. Để thắng cơn
cám dỗ quyết liệt, Chúa Giê-su muốn khiêm tốn chấp nhận kế hoạch và thánh ý của
Chúa Cha được tỏ ra cho Người qua Lời Chúa là Lề Luật và các Ngôn sứ. Sự xuất hiện của ông Mô-sê và ngôn sứ Ê-li-a
nhắc nhở Chúa Giê-su sẽ thực thi những gì đã được chép trong Kinh Thánh về
Người.
Cầu nguyện
biến đổi con người Chúa Giê-su. Hình
ảnh sáng láng chỉ về vinh quang Người sẽ lãnh nhận sau khi hoàn tất sứ
mệnh. Tuy nhiên ta cũng có thể nghĩ đây
là tình trạng “được chiếu sáng” (illumination) của Chúa Giê-su, hoàn toàn quán
triệt được căn tính và sứ mệnh của Người.
Với xác tín trong sáng và sắt đá như thế, Chúa Giê-su mới có thể chu
toàn được sứ mệnh vô cùng khó khăn và cao cả Chúa Cha đã trao phó cho
Người. Hình ảnh đẹp đẽ và linh thiêng
của Chúa Giê-su là Đấng Ki-tô, Người tôi trung của Thiên Chúa, đã được chính
lời Chúa Cha xác nhận: “Đây là Con Ta,
người đã được Ta tuyển chọn,” cũng là những lời Người đã phán với Chúa Giê-su
khi chịu phép rửa của Gio-an (Lc 3:22).
c)
Ông Phê-rô muốn dựng lều cho Chúa
Một cách nào
đó, cuộc hiển dung của Chúa Giê-su đã tác động trên ông Phê-rô và các bạn
ông. Ông thưa với Chúa: “Thưa Thầy, chúng con ở đây, hay quá! Chúng con xin dựng ba cái lều, một cái cho
Thầy...” Ông đã thay đổi phần nào, đã
hiểu phần nào con người và sứ mệnh đích thực của Chúa Giê-su nhờ những gì ông
đã được chứng kiến ở trên núi với Người.
Cảm nghiệm của ông về Thiên Chúa khi được chiêm ngưỡng Chúa Giê-su biến
đổi hình dạng đã gợi ý cho ông làm một cái gì đó để được “ở lại” với
Người. Ông đề nghị dựng một cái lều cho
Chúa Giê-su để Người “cư ngụ” với ông như Thiên Chúa đã cư ngụ tại Lều chứng
với dân Do-thái trong sa mạc ngày xưa.
Nhưng quả thực,Chúa Giê-su Con Thiên Chúa “đã trở nên người phàm và cư
ngụ giữa chúng ta” rồi (Ga 1:14).
Ta cần để
Chúa Giê-su cư ngụ với ta, thì ta mới nhận biết được Người là ai và sứ mệnh của
Người là gì. Ý định dựng lều của ông
Phê-rô phải được thực hiện nơi mỗi người Ki-tô hữu. Ta lấy gì để dựng lều đây?
Trái tim ta sẽ là “túp lều lý tưởng.”
Trí tuệ ta sẽ là nơi ta nghĩ về Người.
Ý chí ta sẽ là chỗ để ta muốn và hăng hái đáp lại lời gọi của
Người. Tóm lại, tất cả con người ta sẽ
là nơi Chúa tiếp tục biến hình, để ta sống nhưng không phải ta mà là Chúa
Giê-su sống trong ta và chiếu sáng trong ta.
d)
Suy nghĩ và cầu nguyện
Chúa Giê-su
nói với mọi người: “Thầy bảo thật anh
em, trong số người có mặt ở đây, có những kẻ sẽ không nếm sự chết, trước khi
thấy Nước Thiên Chúa”, tức là những người nhận biết Người là Đấng Ki-tô đích
thực. Vậy tôi đang có mặt trong Giáo
Hội của Chúa Giê-su, nhưng tôi có thực sự nhận biết con người và sứ mệnh của
Người không? Tại sao không?
Đâu là “cuộc
xuất hành” của tôi? Tôi sẽ hoàn thành
thế nào cho đúng với tư cách là Ki-tô hữu con Chúa?
Những lời
Chúa đã nói với tôi khi tôi được rửa tội:
“Đây là người con Ta yêu dấu” có thể được nghe lại vào lúc này và ở đây
không?
Cuộc biến
đổi hình dạng của Chúa giúp tôi có tâm tình nào trong hành trình đức tin mùa
Chay này?
Lời nguyện:
“Lạy Chúa
Giê-su, xin biến đổi con,
xin biến đổi
con từ từ qua cầu nguyện.
Mỗi lần con
thấy Chúa,
xin biến đổi
ánh mắt con.
Mỗi lần con
rước Chúa,
xin biến đổi
môi miệng con.
Mỗi lần con
nghe lời Chúa,
xin biến đổi
tai con.
Xin làm cho
khuôn mặt con ngời sáng hơn sau mỗi lần gặp Chúa.
Ước chi mọi
người thấy nét tươi tắn của Chúa trong nụ cười của con,
thấy sự dịu
dàng của Chúa trong lời nói của con.
Thế giới hôm
nay không cần những ki-tô hữu có bộ mặt chán nản và thất vọng.
Xin cho con
biết nhẫn nại và can đảm
cùng đi với
Chúa và với tha nhân
trên những
nẻo đường gập ghềnh. A-men.
(Trích
RABBOUNI, lời nguyện 24)
Lm. Đaminh trần đình Nhi
5/3/2004