Chúa Nhật Thứ 4 Mùa Chay

(25-3-2001)

Nghe:

        2 Cr 5, 17-21: Cho nên, phàm ai ở trong Đức Ki-tô đều là thụ tạo mới. Mọi sự đều do bởi Thiên Chúa là Đấng đã nhờ Đức Kitô mà cho chúng ta được hòa giải với Người, và trao cho chúng ta chức vụ hoà giải. Thật vậy trong Đức Ki-tô, Thiên Chúa đã cho thế gian được hòa giải với Người. Người không còn chấp tội nhân loại nữa, và giao cho chúng tôi công bố lời hòa giải. Vậy nhân danh Đức Ki-tô, chúng tôi nài xin anh em hãy làm hoà với Thiên Chúa. Đấng chẳng hề biết tội là gì, thì Thiên Chúa đã biến Người thành hiện thân của tội lỗi vì chúng ta, để làm cho chúng ta nên công chính trong Người.

 

        TIN MỪNG: Lc 15, 1-3. 11-32

Dụ ngôn người cha nhân hậu

Khi ấy, cáùc người thu thuế và người tội lỗi đều lui tới với Đức Giê-su để nghe Người giảng. Những người Pha-ri-siêu và các kinh sư bèn xầm xì với nhau: Ông này đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng. Đức Giê-su mới kể cho họ dụ ngôn này:

Một người kia có hai con trai. Người con thứ nói với cha rằng: Thưa cha, xin cho con phần tài sản con được hưởng Và người cha đã chia của cải cho hai con. Ít ngày sau, người con thứ thu góp tất cả rồi trẩy đi phương xa. Ơû đó anh ta sống phóng đãng, phung phí tài sản của mình.

Khi anh ta đã ăn tiêu hết sạch, thì lại xẩy ra trong vùng ấy một nạn đói khủng khiếp. Và anh ta bắt đầu lâm cảnh túng thiếu, nên phải đi ở đợ cho một người dân trong vùng; người này sai anh ta ra đồng chăn heo. Anh ta ao ước lấy đậu muồng heo ăn mà nhét cho đầy bụng, nhưng chẳng ai cho. Bấy giờ anh ta hồi tâm và tự nhủ: Biết bao nhiêu người làm công cho cha ta được cơm dư gạo thừa, mà ta ở đây lại chết đói! Thôi, ta đứng lên, đi về cùng cha và thưa với người: Thưa cha con thật đắc tội với Trời và với cha, chẳng còn đáng gọi là con cha nữa. Xin coi con như một người làm công cho cha vậy. Thế là anh ta đứng lên đi về cùng cha.

Anh ta còn ở đàng xa, thì người cha đã trông thấy. Ông chạnh lòng thương, chạy ra ôm cổ anh ta và hôn lấy hôn để. Bấy giờ người con nói rằng: Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha, chẳng còn đáng gọi là con cha nữa. Nhưng người cha liền bảo các đầy tớ rằng: Mau đem áo đẹp nhất ra đây mặc cho cậu, xỏ nhẫn vào ngón tay, xỏ dép vào chân cậu, rồi đi bắt con dê đã vỗ béo làm thịt để chúng ta mở tiệc ăn mừng! Vì con ta đây đã chết mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy. Và họ bắt đầu ăn mừng.

Lúc ấy người con cả của ông đang ở ngoài đồng. Khi anh ta về gần đến nhà, nghe thấy tiếng đàn ca nhẩy múa, liền gọi một người đầy tơ ra mà hỏi xem có chuyện gì. Người ấy trả lời: Em cậu đã về và cha cậu đã làm thịt con dê béo, vì gặp lại cậu ấy mạnh khỏe. Người anh cả liền nổi giận và không chịu vào nhà. Nhưng cha cậu ra năn nỉ. Cậu trả lời cha: Cha coi, đã bao nhiêu năm trời con hầu hạ cha, và chẳng khi nào trái lệnh, thế mà chưa bao giờ cha cho lấy được một con dê con để con ăn mừng với bạn bè. Còn thằng con của cha đó, sau khi đã nuốt hết của cải của cha với bọn điếm nay trở về, thì cha lại giết bê béo ăn mừng.

Nhưng người cha nói với anh ta: Con à, lúc nào con cũng ở với cha, tất cả những gì của cha đều là của con. Nhưng chúng ta phải ăn mừng, phải vui vẻ, vì em con đây đã chết mà nay lại sống, đã mất mà nay lại tìm thấy.

Ngẫm:

Câu hỏi gợi ý:

1.      Dụ ngôn trong Tin Mừng Luca 15, 11-32 khi thì được gọi là dụ ngôn người con hoang đàng khi thì được gọi là dụ ngôn người cha nhân hậu. Tại sao vậy? Cách gọi nào chính xác hơn?

2.      Mỗi nhân vật trong dụ ngôn trên nói với chúng ta điều gì?

Suy tư gợi ý:

1.      Thật ra trả lời câu hỏi (1) nêu trên chẳng có gì khó. Trước kia Giáo hội nhấn mạnh nhiều hơn đến yếu tố thống hối, ăn năn, hoán cải của tội nhân thì gọi dụ ngôn trên là dụ ngôn người con hoang đàng. Còn sau này và hiện nay vì Giáo Hội quan tâm hơn đến chính Thiên Chúa nên gọi dụ ngôn trên là dụ ngôn người cha nhân hậu. Cả hai cách gọi đều đúng và bổ túc cho nhau, như hai mặt của một vật. Một đàng sự ăn năn sám hối của tội nhân chỉ cứu được người ấy nhờ vào lòng từ bi thương xót vô bờ bến của Thiên Chúa là Cha nhân hậu. Đàng khác lòng thương xót của Thiên Chúa chỉ đem lại kết quả nếu như các con cái hoang đàng của Chúa biết sám hối tội lỗi của mình và ăn năn chừa cải.

Nhưng nếu chúng ta muốn nói chính xác hơn thì chúng ta phải gọi dụ ngôn trên là dụ ngôn người cha nhâân hậu. Lý chứng là văn mạch của Sách Tin Mừng đòi chúng ta phải gọi như thế. Thật vậy Lu-ca đã viết lời dẫn nhập cho chương 15 (gồm ba dụ ngôn: con chiên bị mất, đồng bạc bị đánh mất và người cha nhân hậu) như sau:

Cáùc người thu thuế và người tội lỗi đều lui tới với Đức Giê-su để nghe Người giảng. Những người Pha-ri-sêu và các kinh sư bèn xầm xì với nhau: Ông này đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng. Đức Giê-su mới kể cho họ những dụ ngôn này. Khi viết như thế, Lu-ca muốn cho những người Pha-ri-sêu và kinh sư và mọi người hiểu rằng: Thiên Chúa nhập thể làm người nơi Đức Giê-su là Thiên Chúa đến trần gian để tìm kiếm những con chiên lạc, những đồng tiền đã rơi vãi mất, những người con hoang đàng, tội lỗi, yếu đuối, sa ngã.

2.      Đã là dụ ngôn thì bao giờ cũng bao hàm ý nghĩa giáo dục, răn dạy. Dụ ngôn người cha nhân hậu cũng mang theo ý nghĩa giáo huấn, giáo dục như các dụ ngôn khác của Sách Phúc Aâm. Vậy thì chúng ta học được gì ở dụ ngôn người cha nhân hậu này? Nói một cách chi tiết hơn, chúng ta học được gì từ mỗi nhân vật của dụ ngôn: từ người con thứ hoang đàng phung phá? từ người anh cả ghen tî và vụ lợi? từ người cha khoan dung nhân hậu?

        Người con thứ hoang đàng phung phá rõ ràng là người không biết cách ăn ở, không biết chu toàn đạo làm con, không biết giá trị của lao động và của cải. Anh chỉ biết có ý riêng ngông cuồng và nông cạn của mình. Anh chỉ quan tâm đến sự thoả mãn các bản năng tầm thường: ăn ngon, mặc đẹp, hưởng thụ thú vui bên những người phụ nữ. Anh chỉ là một người con tầm thường. Chỉ khi anh không còn khả năng tự thoả mãn các lạc thú, anh mới nghĩ tới cha anh. Việc anh quay về nhà cha cũng do một động lực chẳng cao cả gì cho lắm, chẳng qua cũng chỉ vì miếng ăn mà thôi. Giá như anh còn tiền còn của thì chắc chắn anh chưa nghĩ tới ngày quay về. May mà anh còn nghĩ ra được (và sau này có dũng cảm nói ra bằng lời) răèng anh làm như thế là lỗi với Trời và lỗi với cha anh.

Chúng ta có giống như anh con thứ hoang đàng này không? Chúng ta có dám bắt chước anh mà quay trở về với cha trong tin tưởng và khiêm tốn không?

        Người con cả tỏ ra bực bội khi biết cha mình đối xử hết sức ngược đời đối với người em của anh: Thay vì trừng phạt, quở trách ông lại mở tiệc ăn mừng như tưởng thưởng cho lỗi lầm tầy trời của người em hư thân mất nết của anh. Anh thấy cách đối xử ấy không hợp lý tý nào. Và anh tuôn ra tất cả những gì vẫn âm ỷ trong lòng anh từ bấy lâu nay: Cha coi, đã bao nhiêu năm trời con hầu hạ cha, và chẳng khi nào trái lệnh, thế mà chưa bao giờ cha cho lấy được một con dê con để con ăn mừng với bạn bè. Còn thằng con của cha đó, sau khi đã nuốt hết của cải của cha với bọn điếm nay trở về, thì cha lại giết bê béo ăn mừng .

Thốt ra lời ấy, người con cả càng bộc lộ tấm lòng hèn mọn, nhỏ hẹp, vụ lợi của mình. Anh cũng chỉ là người anh tầm thường chứ chẳng hơn gì người em hoang đàng của anh.

Thờ phụng cha: anh chỉ mong được cha đền đáp, tưởng thưởng một con dê béo, một con cừu non. Anh không cảm nghiệm được tình thương bao la của cha là một phần thưởng mà không gì có thể so sánh được. Anh không thấy hạnh phúc lớn lao được luôn ở bên cha: được yêu thương, chăm sóc, quan phòng mọi sự.

Chúng ta có giống như anh con cả này không? Chúng ta có quan tâm đến tình phụ tử thiêng liêng hay chúng ta chỉ để ý đến quyền lợi vật chất khi chúng ta phụng sự cha?

        Hình ảnh trung tâm của dụ ngôn - cũng như của Tin Mừng Lu-ca - là hình ảnh của người cha yêu thương, từ bi, nhân hậu. Người cha ấy yêu con đến nỗi đã làm cả điều mà không người cha nào muốn làm là chia gia tài cho người con thứ để nó đi ăn chơi phung phí. Tình yêu thương dường như đã làm mềm lòng người cha. Có thể nói người ta đã trở nên mềm yếu vì thương con. Rồi sau khi người con thứ đã bỏ nhà ra đi, thì chắc chắn một điều là lòng người cha luôn hướng về người con vắng nhà, luôn thấp thỏm mong con trở về, luôn trông ngóng hình bóng con từ xa. Hiểu người cha như thế chúng ta mới hiểu được câu này của Lu-ca: Anh ta còn ở đàng xa, thì người cha đã trông thấy.

Nhưng người cha đâu chỉ yêu thương tha thứ cho một mình người con thứ hoang đàng. Ông cũng hết sức nhẫn nại, dịu ngọt, nhân hậu với người con cả, khi anh này tuy ở gần ông nhưng lại ở thật xa ông, khi anh trọng một con cừu non hơn diễm phúc được luôn ở bên cha, khi anh không chia sẻ được với cha niềm vui tìm lại được người con đã mất, khi anh ghen tî, so bì với người em đang tan nát tâm hồn và đầy mặc cảm.

Chúng ta có khám phá và học thêm được chút gì về Thiên Chúa là cha nhân hậu qua dụ ngôn và nhất là qua nhân vật người cha trong dụ ngôn này không? Xót thương, nhân hậu không chỉ là một tình cảm mà nhất là một thái độ, một cách sống, một cách hành động cụ thể.

Nguyện:

Lạy Thiên Chúa là Cha nhân hậu, chúng con cảm tạ lòng thương bao la của Cha, chúng con xin cha thứ tha cho những tội lỗi, hèn kém và thiếu sót của chúng con, nhất là tội. hay lỗi.). Xin cha ban cho chúng con một tấm lòng rộng mở, quảng đại, biết thứ tha và chóng quên các xúc phạm, thiếu sót của anh em chúng con, của vợ/chồng chúng con, của các con/cháu của chúng con. Chúng con nài xin cha vì danh Đức Giê-su Ki-tô Con Cha, Chúa chúng con. A-men.

(Giêrônimô Nguyễn Văn Nội)

 


Trở Về Mục Lục | Về Trang Nhà