CHỦ NHẬT THỨ 2 PHỤC SINH
22-4-2001
Đọc Lời
Chúa
· Cv 5, 12-16: Nhiều điềm thiêng dấu lạ
được thực hiện trong dân nhờ bàn tay các tông đồ. Mọi tín hữu đều đồng tâm nhất
trí, thường hội họp tại hành lang Sa-lô-mon. Càng ngày càng có thêm nhiều người
tin theo Chúa: cả đàn ông đàn bà rất đông.
· Kh 1, 9-11a. 12-13. 17-19: Ta là Đầu và
là Cuối. Ta là Đấng Hằng Sống, Ta đã chết và nay tôi đều đến muôn thuở muôn
đời, và Ta giữ chìa khóa của tử thần và âm phủ.
· TIN MỪNG: Ga 20, 19-31
Đức
Giê-su hiện ra với các môn đệ
Vào
chiều ngày ấy, ngày thứ nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín,
vì các ông sợ người Do Thái. Đức Giê-su đến, đứng giữa các ông và nói: Chúc các
anh em được bình an! Nói xong, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn. Các môn
đệ vui mừng vì được thấy Chúa. Người ta lại nói với các ông: Chúc các anh em
được bình an! Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em . Nói xong
Người thổi hơi vào các ông và bảo: Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha
tội cho ai thì người ấy được tha, anh em cầm giữ ai thì người ấy bị cầm giữ .
Một
người trong nhóm mười hai, tên là Tô-ma, cũng gọi là Đi-đi-mô, không ở với các
ông khi Đức Giê-su đến. Các môn đệ khác nói với ông: Chúng tôi đã được thấy
Chúa! Ông Tô-ma đáp: Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ
tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin. Tám
ngày sau, các môn đệ Đức Giê-su lại có mặt trong nhà, có cả ông Tô-ma ở đó với
các ông, các cửa đều đóng kín. Đức Giê-su đến, đứng giữa các ông và nói: Chúc
anh em được bình an! Rồi Người bảo ông Tô-ma: Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn
xem tay Thầy, đưa tay ra và đặt vào cạnh sườn Thầy, đừng cứng lòng tin nữa,
nhưng hãy tin. Ông Tô-ma thưa Người: Lạy Thiên Chúa của con! Lạy Thiên Chúa của
con! Đức Giê-su bảo: Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những người không
thấy mà tin.
Đức
Giê-su đã làm nhiều dấu lạ khác nữa trước mặt các môn đệ; nhưng những dấu lạ ấy
không được ghi chép trong sách này, còn những điều chép ở đây để anh em tin
rằng Đức Giê-su là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa, và để anh em tin mà được sự sống
nhờ danh Người.
Suy niệm
Câu hỏi
gợi ý:
1. Tâm trạng của các tông đồ trước khi Chúa
hiện ra thế nào? Chúng ta có gặp tâm trạng như thế không? chúng ta phản ứng thế
nào?
2. Thân xác Chúa Ki-tô sau khi sống lại có gì
khác lạ? Điều đó có ý nghĩa gì đối với chúng ta?
3. Bí tích giải tội liên quan thế nào với cuộc
tử nạn và phục sinh của Chúa? Tại sao Chúa lại lập bí tích giải tội ngay ngày
phục sinh?
Suy tư
gợi ý:
1. Tâm trạng của các tông đồ sau khi Đức
Giê-su chết
Sau khi
Đức Giêsu bị bắt và bị đóng đinh thập giá, tinh thần của các tông đồ bị dao
động mãnh liệt, niềm tin và lòng can đảm của các ông như bị mất hẳn. Từ lúc
khởi sự theo Ngài tới bữa Tiệc Ly, suốt ba năm ấy, các ông đã nhìn thấy những
dấu chứng rất chắc chắn chứng tỏ Ngài là Đấng Mê-si-a mà dân Do Thái hằng trông
đợi từ mấy trăm năm nay, các ông vẫn luôn luôn tin tưởng rằng sẽ tới lúc Ngài
xuất đầu lộ diện thành một vị tướng tài ba với binh hùng tướng mạnh để giải
phóng dân tộc khỏi ách thống trị tàn bạo của Rô-ma. Và các ông cũng nuôi hy
vọng rằng sau khi Ngài lên ngôi vua, các ông sẽ trở thành những vị quan lớn
trong triều đình của Ngài. Được làm quan cai trị 12 chi tộc Israel - là một mơ
ước không tưởng nhưng luôn nằm saün trong vô thức của những người dân thấp cổ
bé miệng như các ông - nay nhờ theo Đức Kitô đã trở thành một hy vọng dường như
nằm trong tầm tay. Thật vậy, ngay trong bữa tiệc ly, các ông vẫn còn tranh luận
xem ai là người cao trọng hơn (x. Lc 22, 24).
Vì thế,
khi Đức Giêsu bị bắt, các ông bắt đầu hơi nản chí, nhưng vẫn còn hy vọng rằng Ngài
chỉ giả bị bắt, và với quyền phép của Ngài, Ngài sẽ thoát khỏi cái chết dễ dàng
và sẽ phục hưng lại. Nhưng khi thấy Ngài thật sự bị chết một cách quá nhục nhã
trên thập giá, và đã bị chôn trong mồ - rõ ràng Ngài đã chết - thì giấc mơ làm
quan kia hoàn toàn sụp đổ, thay vào đó là nỗi sợ hãi bị người Do Thái ruồng
bắt. Từ trưa thứ sáu Đức Giêsu chịu nạn đến sáng ngày thứ nhất trong tuần lễ kế
tiếp, các ông sống trong hoang mang, sợ hãi và thất vọng.
Sáng
ngày thứ nhất, các ông nghe phong thanh rằng Đức Giêsu đã sống lại, nguồn tin
đến từ mấy phụ nữ khó mà tin chắc chắn được. Giữa các ông cũng có những chứng
từ nhưng không đủ tin: Phêrô và Gioan thấy ngôi mộ trống, còn hai môn đệ từ
Emmau về nói rằng họ vừa nhận ra Ngài thì Ngài biến mất. Chiều hôm đó, khi màn
đêm bắt đầu buông xuống, các ông tụ họp lại để hỏi thăm nhau, bàn tán về những
biến cố xảy ra trong ngày, và cũng để nương nhau cho đỡ sợ. Lúc đó cửa đóng kín
vì các ông sợ người Do Thái. Các ông đang bàn luận thì Đức Giêsu hiện ra.
Mặc dù
nghe phong thanh rằng Ngài đã sống lại, nhưng khi Ngài hiện ra, các ông không
khỏi kinh ngạc, vì đây vốn là một chuyện không thể tin được. Theo Tin Mừng Luca
(24, 36-43) thì khi Ngài hiện ra, các ông kinh hồn bạt vía, tưởng là thấy
ma, và cho dù Ngài đưa tay chân ra cho các ông xem. các ông vẫn chưa
tin, đến nỗi Ngài phải ăn một khúc cá nướng trước mặt các ông để các ông
tin. Chúng ta cần phải thông cảm với các ông, nhất là ông Tôma, vì đối với bất
kỳ ai, sống lại từ cõi chết là điều quá sức lạ lùng, cần phải đích thân sờ mó
vào những dấu đinh, vào cạnh sườn thì mới có thể tin được. Vả lại, có thật sự
chứng nghiệm Ngài sống lại bằng sự sờ mó cụ thể như thế, các ông mới dám mạnh
dạn làm chứng - bằng chính mạng sống mình - rằng Ngài đã thật sự sống lại.
2. Những bài học
Từ bài
Tin Mừng trên, chúng ta chúng ta rút ra những bài học sau đây:
a) Trong cuộc đời, niềm tin của chúng ta vào
Thiên Chúa, vào Đức Giêsu nhiều khi cũng bị thử thách một cách nặng nề như các
tông đồ xưa. Chúng ta cũng bị nao núng tinh thần, bị chán nản thất vọng, thấy
niềm tin của mình tưởng rằng vững chắc bỗng hóa thành như chuyện không tưởng.
Nhưng quả thật đối với Thiên Chúa, có nhiều chuyện không thể tin được mà lại
xẩy ra. Điều quan trọng là trong khi bị thử thách, chúng ta cứ kiên tâm chờ đợi,
đừng vội làm điều gì ngược với lương tâm, với ý Chúa. Tất cả các vị thánh đều
phải trải qua những đêm tối của đức tin . Chúa muốn như vậy, đức tin có
bị thử thách thì mới trưởng thành và trở nên vững chắc được. Sau cơn thử thách
ấy, đức tin hoặc sẽ bị mất đi, hoặc sẽ được trui luyện thành bền vững hơn. Vấn
đề nằm ở sự kiên nhẫn: Ai bền đỗ đến cùng, người ấy sẽ được cứu thoát (Mt
24, 13).
b) Thân xác của Đức Kitô sau khi sống lại là
một thân xác vinh quang, khác với thân xác của Ngài trước khi chết. Thân xác
vinh quang của Ngài không còn bị lệ thuộc vào những định luật vật lý thông
thường: chẳng hạn cửa đóng kín mà vẫn vào được (Ga 20, 19), nhưng không phải là
bóng ma không có thể chất, vì Ngài vẫn có thể ăn uống như người thường (Lc 24,
43), vẫn có thể rờ thấy một cách cụ thể (Ga 20, 20), và nhất là thân xác đó sẽ
chẳng bao giờ phải đau khổ, phải chết nữa. Đó chính là tính chất của thân xác
chúng ta trong tương lai, sau khi chúng ta được sống lại từ cõi chết.
Thân xác
vinh quang sau khi phục sinh là hình ảnh của những tâm hồn đã được sống lại về
mặt tinh thần trong Đức Kitô. Đó là những tâm hồn đã chết cho thế gian, xác
thịt, tội lỗi, và chỉ sống cho Thiên Chúa hay Đức Kitô và tha nhân, tâm hồn họ
không còn bị lệ thuộc vào ngoại cảnh, không còn bị điên đảo vì những biến đổi
của đời thường nữa. Tuy nhiên, họ không phải là những con người siêu thế, sống
ngoài vòng tục lụy, mà họ vẫn luôn luôn sống giữa thế gian, làm tất cả mọi việc
mà mọi người vẫn làm. Họ vẫn phải đương đầu với tất cả mọi khó khăn mà mọi người
vẫn phải đối đầu. Nhưng họ vẫn không bị những khó khăn hay nghịch cảnh vùi dập,
làm họ mất bình an. Họ vẫn luôn luôn tìm được bình an và niềm vui trong mọi
hoàn cảnh dù khó khăn đến đâu. Tình yêu giúp cho họ thâm nhập vào tất cả những
tình huống đời sống thực tế của tha nhân để họ có thể hiểu và giúp đỡ mọi người
tùy theo nhu cầu. Vững tin vào Chúa, gắn bó và luôn luôn sống với Chúa là nguồn
sức mạnh và năng lực, đó là bí quyết tạo sức mạnh của họ.
c) Sinh xuống trần, sống như người trần, rao
giảng cho người trần, chết và sống lại vì người trần, việc cứu chuộc nhân loại
không phải đến đây là hoàn tất. Sứ mạng của Ngài đã hoàn thành được phần chủ
yếu, nhưng chưa hoàn tất. Sứ mạng của Ngài còn dang dở cần được các tông đồ và
Giáo Hội Ngài tiếp tục. Vì thế, như Chúa Cha đã sai Thầy thì Thầy cũng sai
anh em . Ngài không chỉ truyền cho chúng ta sứ mạng rao giảng Tin Mừng để
cứu rỗi thế giới như Ngài đã làm, mà còn ban Thánh Thần và quyền bính thiêng
liêng như Ngài đã từng nhận từ Chúa Cha cho những ai lãnh nhận sứ mạng của
Ngài.
Ngài
trao việc tiếp tục sứ mạng của Ngài cho các tông đồ, cũng chính là cho chúng
ta, tất cả mọi Kitô hữu, đặc biệt cho những ai nhận ra hay tự ý thức về lời mời
gọi của Ngài. Mọi Ki-tô hữu nên ý thức lại về lời mời gọi này trong cuộc sống
của mình.
Cầu
nguyện
Chúa đã
phục sinh. Xin cho con cũng được phục sinh như Chúa, nhất là trong tình trạng
hiện nay của tâm hồn con: tâm hồn con kể như đã chết hay bệnh hoạn vì tính kiêu
ngạo, hèn nhát, ích kỷ, hay vì thiếu niềm tin và tình yêu. Nhưng trước hết, xin
cho con biết thành thật với chính mình và ban cho con can đảm để nhận ra tình
trạng suy yếu hay đã chết của tâm hồn con, và giúp con quyết tâm chỗi dậy nhờ
vào sức mạnh vô biên của Chúa. Amen. (NCK)