Chúa Nhật thứ 4 Phục Sinh

(2-5-2004)

Mục tử nhân lành yêu đàn chiên bằng tình yêu đích thực

 

ĐỌC LỜI CHÚA

·    Cv 13,14.43-52: (47) Chúa truyền cho chúng tôi thế này: «Ta sẽ đặt ngươi làm ánh sáng muôn dân, để ngươi đem ơn cứu độ đến tận cùng cõi đất».

·    Kh 7,9.14b-17: (13) «Những người mặc áo trắng kia là ai vậy? Họ từ đâu đến?» – (14) «Họ là những người đã đến, sau khi trải qua cơn thử thách lớn lao. Họ đã giặt sạch và tẩy trắng áo mình trong máu Con Chiên.

 

·    TIN MỪNG: Ga 10,27-30

Chúa là mục tử luôn gắn bó với chiên của mình

 (27) Khi ấy, Đức Giêsu nói: «Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi; tôi biết chúng và chúng theo tôi. (28) Tôi ban cho chúng sự sống đời đời; không bao giờ chúng phải diệt vong và không ai cướp được chúng khỏi tay tôi. (29) Cha tôi, Đấng đã ban chúng cho tôi, thì lớn hơn tất cả, và không ai cướp được chúng khỏi tay Chúa Cha. (30) Tôi và Chúa Cha là một».

 

CHIA SẺ

Câu hỏi gợi ý:

1. Tại sao chiên của mục tử Giêsu lại nghe Ngài và theo Ngài? Điều gì hấp dẫn dân chúng đến với Ngài, và tuân theo những lời dạy dỗ của Ngài?

2. Điều gì khiến cho mục tử Giêsu có thể «hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên»? Tại sao kẻ chăn thuê «khi thấy sói đến thì bỏ chiên mà chạy»?

3.  Tình yêu chân thật là gì? Có thứ tình yêu nào không chân thật không? Nghĩa là hành động thì có vẻ là yêu, nhưng do một động lực vị kỷ chứ không không do tình yêu thúc đẩy?

4.  Mục tử có phải là một nghề nghiệp không? Người mục tử nào coi việc làm mục tử của mình như một thứ nghề nghiệp, có thể hy sinh cho đàn chiên không? Tại sao?

 

Suy tư gợi ý:

1.  Mục tử nhân lành thật sự yêu thương chiên của mình

Tại sao chiên của Đức Giêsu lại nghe và theo Ngài? – Thông thường, dân chúng chỉ nghe theo, ủng hộ và thậm chí dấn thân cho những ai thật lòng yêu thương họ, sẵn sàng hy sinh cho họ. Đó cũng chính là thái độ và tấm lòng của Đức Giêsu đối với dân chúng. Rất nhiều lần, lời nói và việc làm của Ngài chứng tỏ lòng yêu thương chân thành và bao la của Ngài đối với mọi người, nhất với những người nghèo, bệnh tật, tội lỗi, và đang đau khổ.

– Thánh Kinh dùng từ «chạnh lòng thương» để nói lên lòng thương xót của Ngài khi thấy dân chúng bị đau khổ, lầm than: «Đức Giêsu thấy đám đông thì chạnh lòng thương, vì họ lầm than vất vưởng, như bầy chiên không người chăn dắt» (Mt 9,36); «Đức Giêsu trông thấy một đoàn người đông đảo thì chạnh lòng thương, và chữa lành các bệnh nhân của họ» (14,14); «Thầy chạnh lòng thương đám đông, vì họ ở luôn với Thầy đã ba ngày rồi và họ không có gì ăn. Thầy không muốn giải tán họ, để họ nhịn đói mà về, sợ rằng họ bị xỉu dọc đường» (15,32).

– Không chỉ «chạnh lòng thương» như một cảm xúc xuông, mà cảm xúc ấy luôn luôn đi đến hành động cứu giúp thật sự. Thấy người khốn khổ, đói khát, bệnh tật… Ngài luôn ra tay cứu giúp vô điều kiện: nào là chữa bệnh, làm người chết sống lại, trừ quỷ ám, nào là hóa bánh ra nhiều để giải đói cho hàng ngàn người, nào là cứu người bị kết án vì ngoại tình, giao tiếp với người tội lỗi để hoán cải họ, làm cho họ cảm nhận được tình yêu của Thiên Chúa, v. v… Sách Tông Đồ Công Vụ viết: «Đi tới đâu là Người thi ân giáng phúc tới đó» (Cv 10,38).

Điều quan trọng của người mục tử là phải có cái tâm yêu thương thật sự và bao la. Khi đã thật sự yêu thương thì tình yêu sẽ thúc đẩy người mục tử làm những gì cần thiết cho tha nhân. Và chỉ những hành động được thúc đẩy bởi tình yêu mới có giá trị trước mặt Thiên Chúa. Tất cả những hành động có vẻ yêu thương – như bố thí, chữa bệnh, giúp đỡ… – nếu không xuất phát từ tình yêu thì đều không có giá trị trước Thiên Chúa.

2. Tình yêu chân thật của Đức Giêsu đối với đàn chiên

Điều khiến cho một mục tử trở thành mục tử nhân lành chính là tình yêu chân thành và bao la đối với quần chúng, được biểu lộ bằng hành động thật sự.

Tình yêu của Đức Giêsu đối với đàn chiên của Ngài là một tình yêu chân thật, nghĩa là một tình yêu dám xả thân, dám «hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên» (Ga 10,11.15), «để cho chiên được sống và sống dồi dào» (10,10). Nếu không có tình yêu chân thật, người mục tử sẽ có thái độ: «Khi thấy sói đến thì bỏ chiên mà chạy. Sói vồ lấy chiên và làm cho chiên tán loạn» (10,12).

Tình yêu chân thật không phải là tình yêu ngoài môi miệng. Nếu người mục tử chỉ rao giảng về tình yêu, cho dù rất hay, kêu gọi mọi người yêu thương và hy sinh cho nhau, nhưng chính mình lại không thật sự yêu thương quần chúng, không dám hy sinh, chịu đau khổ, mất mát, thiệt thòi, thậm chí liều mạng vì họ, thì không phải là mục tử nhân lành.

Tình yêu chân thật không phải là thứ tình yêu biểu dương. Những người ham danh, muốn được mọi người ca tụng là đạo đức, là thương người, cũng có những hành động có vẻ đầy yêu thương, như bố thí, giúp đỡ, hy sinh… Nhưng nếu họ chỉ làm những hành động tốt đẹp ấy vì động lực vị kỷ thì đó không phải là yêu thương.

Tình yêu chân thật không phải là thứ tình yêu chức năng. Nhiều người phải tỏ ra yêu thương, ân cần, săn sóc người khác, là vì nghề nghiệp hay chức vụ họ đòi buộc. Họ có thể là cán sự xã hội, bác sĩ, y tá, thầy dạy học, đại lý bảo hiểm, linh mục, mục sư, thượng tọa… là những nghề cao quí đòi hỏi những lý tưởng cao thượng. Thái độ và hành vi yêu thương của họ có thể xuất phát từ tình yêu chân thực, mà cũng có thể do nghề nghiệp hay chức vụ đòi buộc. Nếu những hành động tốt đẹp ấy chỉ được thúc đẩy thực hiện do nghề nghiệp hay chức vụ đòi buộc, thì đây là thứ tình yêu mang tính nghề nghiệp (professional love) hay chức năng (functional love). Tình yêu loại này cũng là tốt, nhưng chưa phải là thứ tình yêu chân thật của người mục tử nhân lành.

Một thí dụ điển hình về tình yêu chức năng: Một phụ nữ «vượt biên» nọ kể cho tôi câu chuyện của cô như sau: Khi cô từ trại tỵ nạn đến nước mà cô định cư, có một bà cán sự xã hội được công ty của bà phái đến đến thăm cô, tìm hiểu nhu cầu của cô để họ giúp đỡ. Bà ấy nói năng với cô rất vui vẻ, niềm nở, tỏ ra sẵn sàng giúp đỡ cô trong bất kỳ trường hợp nào cô cần đến. Bà yêu cầu cô khi nào cần thì cứ gọi điện đến sở cho bà, trong giờ làm việc (giờ hành chánh). Cô ấy liền nghĩ mình may mắn quá, sao lại có người tốt với mình như vậy?! Nhưng tuần lễ sau, khi đi lễ Chúa Nhật, lễ xong, cô thấy bà ở cuối nhà thờ đang chuẩn bị ra về. Cô bèn chạy đến với bà lòng mừng khấp khởi như gặp người ân nhân. Nhưng tại đây, thái độ của bà hoàn toàn khác hẳn: mặt bà lạnh như tiền, có vẻ như chưa hề gặp cô bao giờ và không muốn nói chuyện với cô. Cô chưng hửng và lòng đầy thắc mắc, hụt hẫng. Về sau cô khám phá ra rằng bà chỉ tỏ ra niềm nở và đầy lòng tốt với cô trong giờ hành chánh, khi bà làm công tác cán sự xã hội của bà mà thôi. Công việc của bà đòi hỏi bà phải làm như vậy: nếu không, bà sẽ không đạt hiệu quả trong công việc, và bà sẽ bị công ty của bà sa thải.

3. Mục tử không phải là một nghề nghiệp, mà là thiên chức của tình yêu

Khi kêu gọi Phêrô làm mục tử để chăn dắt đàn chiên, Đức Giêsu hỏi Phêrô đến 3 lần cùng một câu hỏi: «Này Simôn, con Gioan, anh có yêu mến Thầy (hơn các anh em này) không?» (x. Ga 21,15-19). Điều đó có nghĩa gì? – Có nghĩa là: để làm mục tử, điều thiết yếu nhất phải có là tình yêu chân thành và tha thiết đối với Đức Giêsu. Mà đối với Đức Giêsu, yêu Ngài có nghĩa là yêu mọi người, đặc biệt những người nghèo hèn, khốn khổ, bị áp bức (x. Mt 25,40.45). Như vậy, tình yêu là điều kiện tiên quyết phải có để làm mục tử. Có tình yêu đã rồi mới làm mục tử được, và tình yêu ấy là tình yêu «tiên thiên». Chứ không phải là làm mục tử trước rồi mới tìm cách biểu lộ tình yêu sao cho phù hợp với thiên chức của mình. Tình yêu «hậu thiên» này không phải là tình yêu đích thực, mà chỉ là thứ «tình yêu chức năng» hay «tình yêu nghề nghiệp» mà thôi. Với thứ tình yêu này, người ta chỉ có thể yêu khi người ta còn giữ nghề nghiệp ấy, chức vụ ấy. Khi không còn thực thi nghề nghiệp hay chức vụ ấy, thì tình yêu cũng tan biến theo.

Một trong những dấu hiệu rất dễ thấy của thứ tình yêu này là người ta chỉ phục vụ tha nhân một cách giới hạn trong lãnh vực mà chức vụ của họ chính thức đòi hỏi mà thôi. Họ thường không muốn phục vụ ngoài giới hạn đó. Chẳng hạn: chỉ phục vụ trong giờ hành chánh, trong những ngày làm việc, không phục vụ ngoài những ngày hay giờ làm việc. Nếu chức vụ họ chủ yếu là phục vụ về tinh thần, thì họ sẽ không màng tới việc phục vụ về mặt thể chất, cho dẫu đối tượng của họ cần được phục vụ mặt đó. Những mục tử có tình yêu loại này không thể hy sinh «vượt mức» cho đàn chiên, nhất là trong lãnh vực an ninh, sức khỏe, đòi hỏi họ phải liều («vượt mức» ở đây chỉ có nghĩa là quá mức hay quá nhiều đối với họ). Họ sẽ tìm đủ mọi cách khôn ngoan để tránh né những lãnh vực ấy.

Hiện nay, điều rất đáng tiếc trong Giáo Hội, là có những mục tử coi việc làm mục tử như một thứ nghề nghiệp: một thứ nghề danh giá, có thu nhập cao, có địa vị, có quyền hành, mà không đòi hỏi nhiều tài năng, nhiều công sức… Vì thế, «nghề nghiệp» này nhiều khi thu hút những người không có tình yêu và khả năng. Do đó, khi chính thức trở thành «mục tử», họ không thể là một «mục tử nhân lành», không thể hy sinh vì đàn chiên như Đức Giêsu mong muốn và đòi hỏi được. Những mục tử loại này khiến người ta nghĩ tới hình ảnh «kẻ chăn thuê» mà «đàn chiên không thuộc về anh», nên «khi thấy sói đến, anh bỏ chiên mà chạy» (Ga 10,12).

Cầu mong cho trong Giáo Hội, số mục tử chân chính nhiều hơn những người hành nghề mục tử. Vì bổn phận mục tử trên nguyên tắc rất nặng nề, đòi hỏi người mục tử rất nhiều tình yêu, năng lực, tinh thần hy sinh… mới có thể chu toàn được. Chỉ những mục tử này mới làm Giáo Hội thăng tiến, và hoàn thành được sứ mạng mà Đức Giêsu trao cho Giáo Hội.

 

CẦU NGUYỆN

Lạy Cha, xin hãy thương ban cho Giáo Hội của Cha những mục tử đích thật, những mục tử có tình yêu thật sự, những mục tử dám hy sinh và sống chết với đàn chiên của mình. Xin hãy ban sức mạnh và củng cố tình yêu nơi tất cả các mục tử của Cha, để Giáo Hội, nhờ ơn Cha, có đủ sức biến cải xã hội và thế giới nên tốt đẹp hơn.

 

Joan Nguyễn Chính Kết


Trở Về Mục Lục | Về Trang Nhà