CHÚA
NHẬT V PHỤC SINH, C
(Gio-an
13: 31-35)
Phục
Sinh là khởi điểm cho một giai đoạn mới của kế hoạch cứu rỗi. Giai đoạn này đã diễn tiến trong bầu khí
tình nghĩa thân mật giữa Chúa Giê-su, Mục Tử nhân lành, và đoàn chiên của
Người. Đó là giai đoạn của hạt giống đã
chịu chết đi giờ đây sinh nhiều hạt khác (Ga 12:24). Sự chết và sống lại của Chúa Giê-su cùng với sức sống của Chúa
Thánh Thần đã khai sinh Giáo Hội và nuôi dưỡng Giáo Hội cho lớn lên. Nhưng Giáo Hội phải lớn lên như thế nào
chính là điều quan tâm mà Chúa Giê-su đã nói đến khi Người chia sẻ với các môn
đệ Người trong lời cáo biệt đang khi họ ăn bữa Tiệc Ly. Vậy ta hiểu được tại sao Phụng vụ Lời Chúa
hôm nay đã trích dẫn điều răn mới Chúa trăn trối cho các môn đệ trước khi Người
chịu cuộc Thương khó: Anh em hãy yêu
thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em.
Sống yêu thương vừa là cách để ta tiếp tục ở lại trong sự thân mật với
Chúa phục sinh như con chiên bên cạnh Mục Tử nhân lành, vừa là đường lối để
Giáo Hội phát triển theo đúng mẫu mực như Chúa Giê-su muốn.
a) Tiếp tục sống mối quan hệ yêu thương với Mục
Tử nhân lành và anh chị em
Diễn
tiến chủ đề về Giáo Hội dưới sự chăn dắt của Mục Tử nhân lành đưa ta tới một
chiều kích mới là sống mối quan hệ với anh chị em. Quan hệ đoàn chiên không phải chỉ theo chiều dọc, nghĩa là giữa
chiên với Mục Tử, nhưng còn theo chiều ngang là giữa chiên với chiên, hoặc giữa
ta với những anh chị em trong cộng đoàn dân Chúa.
Yêu
Chúa và yêu người là hai điều không thể tách rời. Trong sứ vụ rao giảng Tin Mừng, Chúa Giê-su luôn luôn đồng hóa
hai chiều kích của tình yêu: “Ngươi
phải yêu mến Đức Chúa... Đó là điều răn
lớn nhất và điều răn đứng đầu. Còn điều
răn thứ hai cũng giống điều răn
ấy, là: ngươi phải yêu người thân cận
như chính mình” (Mt 22:37-39). Cộng
đoàn Ki-tô là cộng đoàn yêu thương được phát triển theo hai chiều kích ấy. Chúa Giê-su đã củng cố tình thương yêu giữa
Người với các con chiên qua những chăm sóc thường ngày và cao điểm là qua những
biểu lộ yêu thương của Người sau khi sống lại từ kẻ chết, thí dụ như hiện ra để
an ủi họ, lấy lại tinh thần cho họ, dạy dỗ chỉ bảo, mở lòng trí cho họ hiểu
Kinh Thánh... Tất cả những giáo huấn và
hành động của Chúa Giê-su về tình yêu đều là những chuẩn bị để Chúa đưa ta tới
một hệ luận vô cùng quan trọng và là cốt lõi của lối sống Ki-tô: như Thầy đã yêu thương anh em, anh em hãy
yêu thương nhau. Những bản dịch Kinh
Thánh thường đặt câu nói trên theo thứ tự:
anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đẽ yêu thương anh em. Nhưng nếu đặt nhóm từ “như Thầy đã yêu thương
anh em” ở đầu câu, nó sẽ giúp ta dễ nhìn vào Chúa Giê-su như gương mẫu. Nói khác đi, trước hoàn cảnh khi ta muốn
biết phải yêu thương anh em như thế nào, ta cứ việc ngước lên Chúa và hỏi: Lạy Chúa, Chúa đã yêu thương con như thế
nào? Thế là ta sẽ có ngay câu trả lời
của Chúa để làm tiêu chuẩn hướng dẫn!
Nếu ta cứ để nguyên nhóm từ ấy ở phần sau, nó sẽ giúp ta nhìn lại lối
sống yêu thương của ta với anh chị em và ta sẽ tự hỏi mình: Tôi đã yêu thương anh chị em như Chúa yêu
thương tôi chưa? Cái hay của ngôn ngữ
cũng giúp ta nhiều trong đời sống đức tin đấy chứ.
Giáo
Hội là môi trường để ta tiếp tục sống thân mật với vị Mục Tử nhân lành, nhất là
qua việc lãnh nhận các bí tích. Tuy
nhiên Giáo Hội cũng phải trở nên dấu chỉ của tình yêu. Giáo Hội không là một danh từ, nhưng là một
tập thể sống động gồm các tín hữu. Hình
ảnh Giáo Hội được biểu lộ qua lối sống Ki-tô.
Mà lối sống Ki-tô là sống yêu thương.
Do đó, hình ảnh Giáo Hội sẽ không thể được biểu lộ nếu lối sống ấy không
phải là lối sống yêu thương.
b) Giáo Hội phát triển nhờ yêu thương và trong
yêu thương
Lúc
tâm sự với nhóm môn đệ trước khi chịu cuộc Thương khó, Chúa Giê-su đã gọi họ là
“những người con bé nhỏ của Thầy.” Cách
xưng hô phản ảnh nhiều khía cạnh. Có
thể là cách nói của một người cha hiền hoặc bà mẹ nói với con cái, lúc nào cũng
coi chúng như bé nhỏ. Nhưng cũng có thể
ngụ ý một nỗi ưu tư thầm kín của vị Mục Tử về bản chất yếu đuối của đàn
chiên. Phải đợi cho tới khi Thánh Thần
được sai đến trong ngày lễ Ngũ Tuần, người ta mới nhận ra sức mạnh của Tình
Yêu. Phải đợi cho tới khi các tông đồ
biểu lộ tình thương Thiên Chúa cho những người bệnh tật thể xác lẫn tâm hồn,
những người đói khát nghe lời giảng về Đức Giê-su Na-da-rét, người ta mới thấy
sức lan tỏa của Tình Yêu. Phải đợi cho
tới khi ông Phao-lô và các bạn đem Tin Mừng cho Dân ngoại, thắng vượt mọi khó
khăn trên đường truyền giáo, người ta mới thấy sức kiên cường và động lực thúc
đẩy của Tình Yêu. Không còn là một nhóm
“những người con bé nhỏ” nữa, nhưng là Giáo Hội hoàn vũ, được bành trướng theo
lệnh truyền của vị Mục Tử nhân lành:
“Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài
thọ tạo” (Mc 16:15).
Chúa
Giê-su muốn nói lên vai trò quan trọng của các môn đệ trong sứ mệnh truyền
giáo. Truyền giáo đi theo từng
bước. Trước hết ta phải làm cho người
ta nhận ra ta là ai trước đã. Cho nên
Người mới bảo: “Ở điểm này, mọi người
sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy.”
Đấy, truyền giáo trước hết là rao giảng về chính ta! Rồi từ khởi điểm ấy, người ta mới đi đến câu
hỏi tiếp theo: Vậy Thầy của họ là
ai? Hẳn ta còn nhớ có lần đang lúc Chúa
Giê-su giảng, một người trong đám đông kêu to lên: “Phúc thay người mẹ đã cưu mang và cho Thầy bú mớm!” (Lc
11:27). Chúa Giê-su không cần phải nói
về mẹ Người, thế mà người ta cũng biết và tôn vinh mẹ Người. Cũng theo cách thức ấy, Chúa muốn ta thi
hành sứ mệnh truyền giáo như vậy, nghĩa là khi ta chưa nói về Chúa thì người
khác đã nhận ra Chúa rồi, bởi vì ta đã làm cho hình ảnh Chúa được biểu lộ qua
“điểm” hoặc dấu chỉ Người muốn thấy nơi ta:
do điểm ta yêu thương nhau. Cách
Giáo Hội lớn lên và phát triển đơn giản như thế thôi. Mẹ Tê-rê-xa Calcutta đâu cần phải đứng giữa đám dân chúng giảng
về Chúa, nhưng mẹ chỉ hành động, chỉ yêu thương chăm sóc người đau ốm và nghèo
đói. Vậy mà bao người đã nhận ra Chúa
qua lối sống yêu thương của mẹ. Cho nên
ta có thể hiểu câu nói của Chúa như thế này:
Ở điểm này, Giáo Hội sẽ phát triển mạnh mẽ, là anh em có lòng yêu thương
nhau.
c) Suy nghĩ và cầu nguyện
Tôi
nghe quá nhiều về tình yêu, nhưng có bao giờ tôi chiêm ngưỡng những gì Chúa
Giê-su đã sống và đã làm cho nhân loại để hiểu được tình yêu là gì chưa?
Sống
yêu thương trong cộng đoàn là lối sống đặc biệt của Ki-tô hữu. Tôi đã thi hành lối sống ấy thế nào? Những ai trong cộng đoàn cần đến lòng yêu
thương của tôi? Những ai tôi cần phải
làm hòa và yêu mến? Đó là những điều
khó thực hiện, nhưng không phải là không thể làm được. Vậy tôi có nghe lời Chúa “anh em hãy yêu
thương nhau như Thầy đã yêu
thương anh em” để noi gương hoặc kiểm điểm lại mình không?
Tôi
có ý thức rằng khi tôi không yêu thương anh chị em là tôi đã làm cản trở sự
phát triển của Giáo Hội không? Tôi thử
suy nghĩ về một trường hợp cụ thể nào đó đã làm cho người khác có ý nghĩ không
tốt về Giáo Hội vì cách cư xử thiếu yêu thương của tôi.
Cầu nguyện:
Lạy
Cha, xin dạy chúng con biết cộng tác với nhau
trong
việc xây dựng Nước Trời ở trần gian.
Xin
cho chúng con đến với nhau không chút thành kiến,
và
tin tưởng vào thiện chí của nhau.
Khi
cộng tác với nhau, xin cho chúng con cảm thấy Cha hiện diện,
nhờ
đó chúng con vượt qua những tự ái nhỏ nhen,
những
tham vọng ích kỷ và những định kiến cằn cỗi.
Ước
gì chúng con dám từ bỏ mình,
để
tìm kiếm chân lý ở mọi nơi và mọi người,
nhất
là nơi những ai khác quan điểm.
Lạy
Cha, xin sai Thánh Thần đến trên chúng con,
để
chúng con biết lắng nghe nhau bằng quả tim,
và
hiểu nhau ngay trong những dị biệt.
Nhờ
sống mầu nhiệm cộng tác,
xin
cho chúng con được triển nở không ngừng
và
Thánh Ý Cha được thể hiện trên mặt đất.
A-men.
(Trích
RABBOUNI, lời nguyện 114)
Lm. Đaminh Trần Đình Nhi