Chúa Nhật lễ Chúa Ba Ngôi
(6-6-2004)
Phải tiếp nhận Thần Khí Sự Thật thế nào?
ĐỌC LỜI CHÚA
· Cn 8,22-31:
(30) Ngày ngày ta là niềm vui của Người, trước mặt Người, ta không
ngớt vui chơi, (31) vui chơi trên mặt đất, ta đùa vui với con cái
loài người. (Từ «ta» trong câu là Đức Khôn Ngoan của Thiên Chúa).
· Rm 5,1-5: (5)
Thiên Chúa đã đổ tình yêu của Người vào lòng chúng ta, nhờ Thánh Thần mà Người
ban cho chúng ta.
· TIN MỪNG :
Ga 16,12-15
Khi Thần Khí sự thật đến
Khi ấy, Đức
Giêsu nói với các môn đệ: (2) «Thầy còn nhiều điều phải nói với anh
em. Nhưng bây giờ, anh em không có sức chịu nổi. (13) Khi nào Thần
Khí sự thật đến, Người sẽ dẫn anh em tới sự thật toàn vẹn. Người sẽ không tự
mình nói điều gì, nhưng tất cả những gì Người nghe, Người sẽ nói lại, và loan
báo cho anh em biết những điều sẽ xảy đến. (14) Người sẽ tôn vinh
Thầy, vì Người sẽ lấy những gì của Thầy mà loan báo cho anh em. (15)
Mọi sự Chúa Cha có đều là của Thầy. Vì thế, Thầy đã nói : Người lấy những gì
của Thầy mà loan báo cho anh em».
Câu hỏi gợi ý :
1. Nhân loại đã biết về thế giới hữu hạn này thế nào? Biết đủ chưa?
Những điều đã biết so với những điều chưa biết, cái nào nhiều hơn? Muốn biết và
khám phá thêm thì con người phải có thái độ nào?
2. Nhân loại – cụ thể là Giáo Hội – đã biết về Thiên Chúa vô hạn thế
nào? Đã đủ chưa? Những điều đã biết so với những điều chưa biết, cái nào nhiều
hơn? Muốn biết và khám phá thêm về Thiên Chúa thì người Kitô hữu nên có thái độ
nào?
3. Hiện nay, Thiên Chúa có còn tiếp tục mặc khải về Ngài không? Bằng
cách nào? Qua ai? Muốn nhận được mặc khải, Giáo Hội cần có thái độ nào?
CHIA SẺ
1. Những gì con người biết về Thiên Chúa là vô
cùng ít so với những gì họ không biết về Ngài
Qua dòng lịch
sử, ta thấy con người ngày càng hiểu biết nhiều hơn về đủ mọi phương diện.
Nhưng càng biết nhiều, con người càng khám phá ra sự bao la của những gì mình
chưa biết: «Càng biết nhiều, càng thấy mình dốt». Những gì con người đã biết
giống như diện tích bên trong một vòng tròn, còn những gì chưa biết giống như
diện tích bao la bên ngoài vòng tròn. Vòng tròn càng nhỏ thì phần tiếp xúc với
bên ngoài vòng tròn càng nhỏ, vòng tròn càng lớn thì phần tiếp xúc với bên
ngoài vòng tròn càng lớn. Tương tự, người ta khi biết ít thì thấy những điều
mình chưa biết cũng ít, nhưng càng biết nhiều thì khám phá ra những điều mình
chưa biết càng nhiều lên.
Thế giới vật
chất tuy hữu hạn, nhưng con người khám phá suốt mấy chục thế kỷ mà vẫn không
hết. Trái lại, càng khám phá thì càng nhận ra những điều mình chưa biết nhiều
lên gấp bội. Thế thì những gì con người biết về Thiên Chúa, Đấng vô hạn, lại
càng nhỏ bé gấp triệu triệu lần hơn nữa khi so với những điều họ chưa biết về
Ngài! Tuy nhiên, Ngài vẫn tiếp tục cho con người biết về Ngài. Ngài đã tự mặc
khải cho con người qua vũ trụ, qua các ngôn sứ, qua Đức Giêsu, và hiện nay vẫn
tiếp tục qua Thánh Thần của Ngài. Nhưng nhiều khi con người tự mãn về những
hiểu biết của mình về Ngài, nên con người đã không biết thêm về Ngài được bao
nhiêu so với những gì con người biết về thế giới vật chất.
2. Thiên Chúa mặc khải về Ngài một cách rất tiệm
tiến
Nếu kiến thức
về vật chất hữu hạn này mà con người không thể tiếp thu một lúc mà phải tiếp
thu dần dần qua thời gian mấy chục thế kỷ, thì những kiến thức về Thiên Chúa vô
hạn cũng thế: con người chỉ có thể tiếp thu dần dần qua thời gian. Vì thế,
trước khi từ giã các tông đồ, Đức Giêsu nói: «Thầy còn nhiều điều phải nói với
anh em. Nhưng bây giờ, anh em không có sức chịu nổi». Có lẽ Ngài cũng muốn nói
như Đức Phật: Điều ta đã nói ra so với điều ta biết chỉ như nắm lá trong tay so
với lá của cả khu rừng.
Khi mặc khải
cho con người, Đức Giêsu tương tự như một thầy dạy toán cho học sinh cấp một,
ông không thể nhồi nhét hết kiến thức toán học trong đầu ông cho các em trong
một hai năm được. Ông phải chờ các em tiêu hóa hết những điều mình đã dạy rồi
mới dạy tiếp những kiến thức khác. Và thường là ông phải nhường cho những ông
thầy khác dạy tiếp cho các em trong những năm sau. Đức Giêsu cũng vậy, Ngài còn
rất nhiều điều phải nói về Thiên Chúa cho các tông đồ, cho con người, nhưng
không thể nói hết được, vì các tông đồ cũng như con người «không có sức chịu
nổi», nghĩa là không thể tiếp thu hết được. Nay Ngài không thể tiếp tục ở trần
thế để mặc khải về Thiên Chúa cho con người, Ngài phải nhờ người khác tiếp nối
công việc ấy. Người ấy chính là Thánh Thần.
Ngài nói: «Khi
nào Thần Khí sự thật đến, Người sẽ dẫn anh em tới sự thật toàn vẹn». Nhưng
Thánh Thần không mặc khải cho con người bằng lời nói rõ ràng như Đức Giêsu, mà
theo cách riêng của Ngài, là linh hứng cho con người. Con người phải thích ứng
với cách của Ngài.
3. Thái độ cần có để tiến bộ trong hiểu biết
Để tiếp nhận
thêm kiến thức, người học trò cần phải nhận ra rằng mình còn rất nhiều điều
chưa biết. Ai nghĩ rằng những điều mình đã học là tất cả, là đầy đủ rồi, thì
không thể hiểu biết thêm được nữa. Cũng vậy, nếu con người cho rằng những gì
mình biết về Thiên Chúa đã quá đầy đủ rồi, không cần biết thêm, thì con người
sẽ tự mãn và dậm chân tại chỗ về mặt tâm linh. Nếu con người hay Giáo Hội cho
rằng hình thái mà mình đang có là hoàn hảo rồi, không cần phải đổi mới gì hết,
thì Thánh Thần dù có muốn đổi mới và thăng tiến Giáo Hội cũng gặp rất nhiều khó
khăn.
Người học trò
cấp một được thầy dạy rằng không được lấy số nhỏ trừ số lớn; điều đó thật hợp
lý với khối óc nhỏ bé của em. Nhưng khi lên cấp hai, nếu em cứ nhất định rằng
không thể lấy số nhỏ trừ số lớn, thì em không thể học lên cao được, vì ở cấp
hai người ta bắt đầu dùng số âm. Cũng vậy, tại cấp hai, thầy giáo dạy rằng
không được để số âm trong căn hiệu bậc chẵn, vì điều đó là phi lý. Nhưng khi
học giải tích về số ảo, thì số âm trong căn hiệu bậc chẵn là điều bình thường
và hữu lý. Nếu học sinh cứ nhất định cho những gì mình đã biết là chân lý không
thể thay đổi, thì em không thể tiến cao hơn được. Việc hiểu biết về sự vật hữu
hạn mà còn đòi hỏi phải «phá chấp» như vậy mới tiến bộ được, chẳng lẽ muốn tiến
bộ trong việc hiểu biết Thiên Chúa vô hạn lại chẳng phải «phá chấp»?
4. Không nên tự mãn về những gì đã biết hay đã có
Nhìn vào sự
tiến triển về vật chất, chúng ta có thể nhận ra mình cần phải làm gì để tiến bộ
về tâm linh. Khi con người có được chiếc xe đạp, nếu họ tự mãn rằng thế là đủ
rồi, và cho đó là hết cỡ rồi, thì sẽ không bao giờ họ phát minh được xe gắn máy
hay xe hơi. Muốn tiến triển, con người phải cải thiện không ngừng về kiến thức.
Rất nhiều điều con người thế hệ trước cho là đúng và khó có thể khác được, thì
thế hệ sau không còn cho là đúng nữa. Nhiều định luật mới đã phủ định hoặc bổ
túc những định luật cũ, các giả thuyết cũ cũng được hoàn chỉnh bằng những giả
thuyết mới. Chính nhờ ý thức mình còn thiếu, còn phải thay đổi mà con người
tiến bộ. Nếu cứ khư khư giữ những quan niệm cũ, cho đó là những chân lý không
thể thay đổi, thì con người ngày nay làm sao có được những máy vi tính, những điện
thoại di động, những mạng lưới điện toán (internet), những phương tiện di
chuyển tối tân?
Nhân loại
phát triển và tiến bộ được là do có những người dám xét lại những quan niệm cũ
mà mọi người đều đã cho là đúng. Nhờ đó họ đã đưa ra được những quan niệm mới
đúng hơn. Những người đó nhiều khi phải trả giá rất mắc cho sự đổi mới táo bạo
ấy. Họ thường bị người đồng thời kết án là phá hoại. Nhưng nếu không có những
con người táo bạo ấy, con người sẽ dậm chân tại chỗ, và sẽ không có tiến bộ.
5. Luật của Chúa nhưng lại được lập ra cho con
người
Hiện nay,
trong Giáo Hội, có những điều mà rất nhiều người cho là những chân lý bất biến,
là luật của Thiên Chúa, là truyền thống của Giáo Hội, là tông truyền… nên không
bao giờ được thay đổi. Họ rất có lý. Nhưng thiết tưởng cần phải phân biệt giữa
chân lý và cách hiểu hay diễn tả chân lý. Chân lý thì bất biến, nhưng cách hiểu
hay diễn tả chân lý thì thay đổi tùy theo trình độ hiểu biết của con người.
Tương tự như bản chất của sự vật thì không hề thay đổi, nhưng cách hiểu và diễn
tả của con người về sự vật thì mỗi thời mỗi khác.
Nếu đọc Thánh
Kinh, ta sẽ thấy có những điều mà con người nghĩ rằng không bao giờ thay đổi,
nhưng rồi cuối cùng cũng đã thay đổi. Quả thật, luật của Môsê được người Do
Thái quan niệm là luật của Thiên Chúa, nên họ tưởng luật đó sẽ được áp dụng cho
cả nhân loại đến muôn đời. Nhưng thật ra, luật đó chỉ được áp dụng khoảng 1300
năm cho người Do Thái, nghĩa là tính từ khi có Môsê đến thời các tông đồ. Vì
đến thời các tông đồ, chính các tông đồ được Thánh Thần soi sáng đã tuyên bố
bãi bỏ luật Môsê (x. Cv 15,1-29). Vì thế, hiện nay, người Kitô hữu trong Giáo
Hội đâu phải tuân giữ luật Môsê, mà chỉ tuân giữ luật yêu thương của Đức Giêsu
và luật Giáo Hội thôi. Nếu luật Môsê là luật của Thiên Chúa mà con người, dưới
tác động của Thánh Thần, đã từng thay đổi, thì còn luật nào trên thế giới này
lại tuyệt đối không thể thay đổi?
Vả lại, luật
của Thiên Chúa, cho dù do Thiên Chúa lập ra, thì cũng lập ra cho con người: «Ngày
sabát được dựng nên cho con người, chứ không phải con người được dựng nên cho
ngày sabát» (Mc 2,27). Mà con người thì luôn luôn biến đổi, nên luật cho con
người cũng phải biến đổi mới có thể phù hợp với con người từng thời đại. Quan
niệm về Thiên Chúa cũng vậy. Nếu quan niệm thời Cựu ước về Thiên Chúa đã bị
thay đổi, thì liệu quan niệm của chúng ta hiện nay về Thiên Chúa có thể không
thay đổi chăng?
Khi con người
cố chấp vào một điều nào đó mà không chịu lắng nghe Thánh Thần, thì con người
sẽ không theo kịp Thánh Thần, và có nguy cơ chống lại Thánh Thần. Các tư tế,
kinh sư Do Thái xưa chính vì quá cố chấp vào lề luật, vào những điều họ cho là
chân lý bất biến, nên họ đã không theo kịp và không tiếp nhận được những đổi
mới của Thánh Thần qua Đức Giêsu và các tông đồ. Cuối cùng họ đã giết chết các Ngài.
Họ đã cản trở những đổi mới của Thánh Thần. Họ đã phạm đến Thánh Thần: «Ai phạm
đến Con Người thì được tha; nhưng ai phạm đến Thánh Thần sẽ chẳng được tha, cả
đời này lẫn đời sau» (Mt 12,32).
Nhiều khi chúng ta phải hồi tâm tự hỏi xem: sự phát triển
của Giáo Hội về chất lượng cũng như số lượng trong những thế kỷ qua có khả quan
không? Chúng ta có thể hài lòng về sự phát triển ấy không? Có phát triển như
lòng Thiên Chúa hay Thánh Thần mong muốn không? Nếu không thì tại sao? Giáo Hội
có cần phải thay đổi để phát triển hơn nữa không?
CẦU NGUYỆN
Lạy Cha, Thánh Thần của Cha thì luôn luôn đổi mới, nhưng con người lại cứ cố chấp vào cái cũ, vào những gì mình đã biết. Vì thế, họ không thích ứng được với những đòi hỏi của Thánh Thần trong
hoàn cảnh mới mà vẫn cứ tưởng làm như thế là phụng sự và bảo vệ Thiên Chúa (x. Ga 16,2). Xin Cha giúp con biết lắng nghe Thánh Thần trong lòng con, để con theo kịp được những đổi mới mà Ngài muốn thực hiện nơi con.
Joan Nguyễn Chính Kết