Chúa Nhật thứ 2 sau
Giáng Sinh
(4-1-2004)
Có tôn giáo chân chính chưa đủ,
mà còn phải thật sự sống tinh thần tôn giáo ấy nữa.
ĐỌC LỜI CHÚA
· Is 60,1-6:
(3) Chư dân sẽ đi về phía ánh
sáng của ngươi, vua chúa hướng về ánh bình minh của ngươi mà tiến bước. (4) Đưa mắt nhìn tứ phía mà xem, tất cả đều tập hợp, kéo
đến với ngươi: con trai ngươi từ phương xa tới, con gái ngươi được ẵm bên hông.
· Ep
3,2-3a.5-6: (5) Thiên
Chúa đã không cho những người thuộc các thế hệ trước được biết mầu nhiệm này,
nhưng nay Người đã dùng Thần Khí mà mặc khải cho các thánh Tông Đồ và ngôn sứ
của Người. (6) Mầu
nhiệm đó là: trong Đức Kitô Giêsu và nhờ Tin Mừng, các dân ngoại được cùng thừa
kế gia nghiệp với người Do thái, cùng làm thành một thân thể và cùng chia sẻ
điều Thiên Chúa hứa.
· TIN MỪNG: Mt
2,1-12
Các nhà chiêm tinh đến bái lạy Đức
Giêsu Hài Nhi
(1) Khi Đức Giêsu ra đời tại Bêlem, miền
Giuđê, thời vua Hêrôđê trị vì, có mấy nhà chiêm tinh từ phương Đông đến
Giêrusalem, (2) và hỏi: «Đức Vua dân
Do-thái mới sinh, hiện ở đâu? Chúng tôi đã thấy vì sao của Người xuất hiện bên
phương Đông, nên chúng tôi đến bái lạy Người». (3) Nghe tin ấy, vua Hêrôđê bối rối, và cả thành Giêrusalem cũng xôn xao. (4) Nhà vua liền triệu tập tất cả các thượng tế và kinh
sư trong dân lại, rồi hỏi cho biết Đấng Kitô phải sinh ra ở đâu. (5) Họ trả lời: «Tại Bêlem, miền Giuđê, vì trong sách ngôn sứ, có chép rằng: (6) 'Phần ngươi, hỡi Bêlem, miền đất Giuđa, ngươi đâu
phải là thành nhỏ nhất của Giuđa, vì ngươi là nơi vị lãnh tụ chăn dắt Ítraen
dân Ta sẽ ra đời».
(7) Bấy giờ vua Hêrôđê bí mật vời các nhà
chiêm tinh đến, hỏi cặn kẽ về ngày giờ ngôi sao đã xuất hiện. (8) Rồi vua phái các vị ấy đi Bêlem
và dặn rằng: «Xin quý ngài đi dò hỏi tường tận về Hài Nhi, và khi đã
tìm thấy, xin báo lại cho tôi, để tôi cũng đến bái lạy Người». (9) Nghe nhà vua nói thế, họ ra đi. Bấy giờ ngôi sao họ đã thấy ở phương
Đông, lại dẫn đường cho họ đến tận nơi Hài Nhi ở, mới dừng lại. (10) Trông thấy ngôi sao, họ mừng rỡ vô cùng. (11) Họ vào nhà, thấy Hài Nhi với thân mẫu là bà Maria,
liền sấp mình thờ lạy Người. Rồi họ mở bảo tráp, lấy vàng, nhũ hương và mộc
dược mà dâng tiến. (12)
Sau đó, họ được báo mộng là đừng trở lại gặp vua Hêrôđê nữa, nên đã đi lối khác
mà về xứ mình.
CHIA SẺ
Câu hỏi gợi ý:
1. Lúc Đức Giêsu sinh ra, những ai biết được Ngài đã sinh ra và sinh ở
đâu? Họ biết được là nhờ phương tiện gì? Phương tiện nào giá trị và chính xác
nhất? Và phương tiện nào đã giúp đương sự thật sự gặp được Đức Giêsu?
2. Biết về Thiên Chúa một cách đúng đắn và chính xác có bảo đảm là sẽ
thật sự gặp gỡ và cảm nghiệm được Ngài không? Những kẻ không biết đúng đắn và
chính xác về Ngài có thể gặp gỡ và cảm nghiệm Ngài không? Yếu tố quan trọng để
gặp gỡ và cảm nghiệm Ngài là gì?
3. Bạn rút ra bài học gì về khả năng được cứu rỗi của dân ngoại? Điều
quan trọng để được cứu rỗi là tin, là biết cho chính xác, hay là thực hiện điều
mình tin, điều mình biết, tức thật sự sống tinh thần yêu thương của Thiên Chúa?
Suy tư gợi ý:
1. Ba cách biết khác nhau về sự
kiện Đấng Cứu thế sinh ra
Cách đây khoảng 2000 năm, Đức Giêsu –
Đấng Cứu Thế mà các ngôn sứ đã tiên báo hàng trăm năm trước – đã sinh ra một
cách rất âm thầm tại làng Bêlem. Âm thầm, nhưng vẫn có những người biết sự kiện
này. Đó là các mục đồng, rồi đến các nhà chiêm tinh ngoại giáo, sau cùng là vua
Hêrôđê và các kinh sư Do Thái. Họ biết theo những cách thức khác nhau, và phản
ứng của họ sau khi biết cũng rất khác nhau.
Các mục đồng đơn sơ chất phác thì được
các thiên sứ trực tiếp đến báo tin. Đây là cách biết dễ dàng nhất, mau lẹ nhất,
khỏe nhất, không đòi hỏi tài năng hay suy luận cao xa, không đòi hỏi phải chủ
động tìm kiếm rồi mới biết, mà lại chính xác nhất… Tất cả đều do Thiên Chúa sắp
đặt và cho biết một cách vô điều kiện. Và sau khi biết Đấng Cứu Thế sinh ra ở
đâu, các mục đồng đã đến thăm viếng Ngài.
Các nhà chiêm tinh thì biết theo kiểu
khác. Các ông khám phá ra sự xuất hiện của một ngôi sao lạ. Các ông dùng kiến
thức về chiêm tinh học để suy đoán ra ý nghĩa của ngôi sao ấy. Và điều rất quan
trọng là các ông đã lên đường tìm kiếm «Đức
Vua Dân Do Thái mới sinh» (Mt 2,2), dù xa xôi. Và các ông đã gặp
được Ngài là một hài nhi nằm trong máng cỏ. Cách biết này mang tính tự nhiên,
không chính xác, đòi hỏi thêm nhiều kiến thức tự nhiên của con người. Tuy vậy,
cách biết bất toàn này đã giúp các ông thật sự gặp được Đấng Cứu Thế mới sinh.
Vua Hêrôđê và các kinh sư Do Thái lại
biết theo kiểu khác nữa. Nếu không nhờ các nhà chiêm tinh đến hỏi thăm thì họ
sẽ chẳng bao giờ đặt vấn đề hay tìm hiểu về việc Đấng Cứu Thế sinh ra. Nhưng
phải công nhận là sau khi được hỏi tới, họ biết được ngay nơi Đấng Cứu Thế sinh
ra nhờ tra cứu Kinh Thánh, là mặc khải siêu nhiên và bảo đảm của Thiên Chúa.
Nhờ Kinh Thánh, họ biết đích xác nơi Đấng Cứu Thế sinh ra là tại làng Bê-lem.
Nhưng khác với hai loại người trước, họ biết rồi để đấy, cái biết của họ – tuy
rất chính xác và bảo đảm – chỉ là một cái biết thuần túy, chẳng dẫn tới hành
động, chẳng dẫn họ đến với Đấng Cứu Thế, cội nguồn ơn cứu độ.
2. Phải lên đường đi tìm, phải biến cái biết thành hành động
Như vậy, để biết về Thiên Chúa, về Đức
Giêsu, hay về chân lý có thể có nhiều cách biết khác nhau. Có cách do tự nhiên,
có cách do siêu nhiên; có cách hoàn toàn do Thiên Chúa, có cách đòi hỏi sự góp
phần của con người; có cách bảo đảm đúng và dễ dàng, có cách còn mơ hồ và còn
phải nỗ lực nhiều mới đạt được sự chính xác… Nhưng xem ra không phải những ai
biết chính xác về Thiên Chúa thì sẽ đương nhiên gặp được Ngài, còn những ai
không biết đúng về Ngài thì sẽ không gặp được Ngài. Nhiều người biết rất chính
xác về Thiên Chúa nhưng lại chẳng có một nỗ lực nào đi tìm Ngài, nên cái biết
ấy vô ích chẳng khác gì không biết! Ngược lại, có những người biết về Ngài rất
lờ mờ, thậm chí sai lạc, nhưng lại có quyết tâm đi tìm Ngài. Cuối cùng chỉ
những người thật sự đi tìm Ngài mới gặp được Ngài. Vì đối với Thiên Chúa hay
Chân Lý, thì «ai tìm, sẽ thấy»
(Mt 7,7-8). Còn nếu chỉ biết do nghe nói về Ngài, mà không lên đường đi tìm
Ngài, thì cái biết ấy vô ích. Cái biết ấy tuy quí giá, nhưng chẳng khác gì một
món tiền lớn đựng mãi trong két sắt, chẳng bao giờ được đem ra xài, nên chẳng
lợi ích gì cho người chủ của nó: chủ nó thiếu thốn vẫn tiếp tục thiếu thốn.
Quả thật, nhiều người Kitô hữu tự hào
về tôn giáo của mình là tôn giáo mặc khải, là tôn giáo chân chính phát xuất từ
Thiên Chúa. Họ biết rất nhiều và rất chính xác về Thiên Chúa. Nhưng cái biết ấy
chẳng đem lại lợi ích gì cho tâm linh và sự sống đời đời của họ. Vì họ chẳng
đem chỉ biết ấy ra thực hành. Đức Giêsu nói họ chẳng khác gì những «người ngu dại xây nhà trên cát» (Mt 7,26).
Giữa việc biết và việc thực hành cái biết ấy là cả một vực thẳm phải vượt qua,
như một linh mục nọ thường nói: «Từ cái tai
đến cái tay là cả một khoảng cách» (Lm Nguyễn Văn Siêu, sj).
3. Nỗ lực thành công của dân ngoại đến tìm Chúa
Bài Tin Mừng của lễ Hiển Linh hôm nay
cho thấy: dân ngoại mà nỗ lực tìm kiếm Thiên Chúa thì sẽ gặp được Ngài, còn
chính dân của Thiên Chúa nếu không nỗ lực tìm kiếm Ngài thì chẳng gặp được
Ngài. «Thiên Chúa muốn cho mọi người được
cứu độ và nhận biết chân lý» (1Tm 2,4; x. Dt 2,9), nên đối với những
người ngoài Kitô giáo, Thiên Chúa vẫn dành cho họ những con đường riêng biệt để
đến với Ngài. nhưng «bằng cách nào thì chỉ
có Chúa biết thôi» (Cđ Vat II, MV 22,5).
Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy có những
con đường ấy bằng một trình thuật đầy oái oăm: Những kẻ có tôn giáo chân chính,
có Kinh Thánh hay Lời Chúa trong tay, hiểu biết rất chính xác về Thiên Chúa thì
lại không gặp được Ngài. Còn những kẻ không có tôn giáo chân chính, không có
phương tiện hữu hiệu để biết Ngài, thì lại gặp được Ngài nhờ quyết tâm tìm kiếm
Ngài. Điều ấy thật ứng nghiệm lời Kinh Thánh: «Dân
mà trước đây không phải là dân của Ta, thì Ta sẽ gọi là Dân của Ta»
(Os 1,10 ® Rm 9,26). Với những kẻ tự hào mình có tôn giáo
chân chính, có Lời Chúa trong tay mà không chịu sống tôn giáo ấy, không chịu
thực hành Lời Chúa, thánh Phaolô viết: «Còn
bạn, bạn mang danh là đạo Do-thái, lại ỷ rằng mình có Lề Luật, và tự hào vì có
Thiên Chúa; bạn được biết ý Người, được Lề Luật dạy cho điều hay lẽ phải; Bạn
tự hào vì có Lề Luật, mà bạn lại vi phạm Lề Luật, và như vậy bạn làm nhục Thiên
Chúa! Thật đúng như lời chép: Chính vì các người mà danh Thiên Chúa bị phỉ báng
giữa chư dân» (Rm 2,17-18.23-24). Những người này, cũng theo thánh
Phaolô, trước mặt Thiên Chúa, không giá trị bằng những người ngoại mà sống đúng
theo luật lương tâm: «Còn phép cắt bì, đã
hẳn là có ích, nếu bạn thi hành Lề Luật. Nhưng nếu bạn vi phạm Lề Luật, thì bạn
có được cắt bì cũng kể như không cắt bì. Nếu người không được cắt bì mà giữ
những điều Luật dạy, thì tuy họ không được cắt bì, Thiên Chúa chẳng coi họ như
đã được cắt bì sao? Người không được cắt bì trong thân xác mà vẫn chu toàn Lề
Luật, người ấy sẽ lên án bạn, vì bạn có Lề Luật ghi chép hẳn hoi và bạn đã được
cắt bì, mà vẫn vi phạm Lề Luật» (Rm 2,25-27).
Do đó, được là người Kitô hữu là một ơn
rất lớn lao và đặc biệt. Nhưng lại cũng là một trách nhiệm, vì ai nhận nhiều
thì sẽ bị đòi hỏi phải sinh lợi ra nhiều, ai nhận ít thì bị đòi hỏi ít (x. dụ
ngôn yến bạc: Mt 25,14-30). Nếu ta sống đúng tinh thần của người Kitô hữu là
luật yêu thương của Đức Giêsu (x. Ga 13,34), thì hạnh phúc và phần thưởng cho
chúng ta, đời này cũng như đời sau (x. Lc 18,30; Mc 10,30), sẽ vô cùng lớn lao.
Nhưng nếu ta không đem tinh thần yêu thương của Đức Giêsu ra thực hành trong
đời sống, thì giá trị của ta không bằng người ngoại giáo biết sống đúng theo
lương tâm của họ.
CẦU NGUYỆN
Lạy Cha, là
người Kitô hữu, chúng con thường tự hào rằng tôn giáo của mình là chính giáo.
Nhưng quả thật, nhiều khi chúng con lại không sống tinh thần yêu thương của Đức
Kitô bằng nhiều người ngoại giáo. Qua bài Tin Mừng lễ Hiển Linh hôm nay, xin
cho chúng con ý thức được nguy cơ này: coi chừng chúng con cũng giống như Hêrôđê
và các kinh sư Do Thái, có tôn giáo chân chính, có phương tiện để gặp Cha, để
được cứu rỗi trong tay, nhưng cuối cùng tất cả những ưu đãi ấy đều trở thành vô
ích vì sự ù lỳ của chúng con. Đang khi ấy, nhiều người ngoại giáo lại có diễm
phúc gặp Cha và gần Cha hơn chúng con, chỉ vì họ biết dấn thân quảng đại đáp
lại những ơn Cha ban, dù ơn đó họ được ít ỏi hơn chúng con. Xin cho chúng con
biết thật sự sống tinh thần yêu thương của Đức Giêsu, để chúng con xứng đáng là
người Kitô hữu đích thực.
Joan Nguyễn Chính Kết