Chúa Nhật thứ 11 Thường Niên
(17-6-2001)
Lễ Mình và Máu Thánh Chúa Ki-tô
Đọc Lời
Chúa
· St
14,18-20 : Ông Men-ki-sê-đê, vua thành
Sa-lem, mang bánh và rượu ra; ông là tư tế của Thiên Chúa Tối Cao. Ông chúc phúc
cho Áp-ram và nói: Xin Thiên Chúa Tối Cao, Đấng dựng nên trời đất, chúc phúc
cho Áp-ram!.
· 1 Cr
11,23-26 : Anh em cầm lấy mà ăn, đây
là Mình Thầy, hiến tế vì anh em. Anh em hãy làm như Thầy vừa làm, để tưởng nhớ
đến Thầy (.) Đây là chén Máu Thầy, Máu đổ ra để lập Giao Ước mới, mỗi khi uống,
anh em hãy làm như Thầy vừa làm, để tưởng nhớ đến Thầy.
· TIN MỪNG: Lc 9,11b-17
Đức Giê-su làm phép lạ
hóa bánh ra nhiều
Khi ấy, Đức Giê-su tiếp
đón dân chúng, Ngài nói với họ về Nước Thiên Chúa, và chữa lành những ai cần
được chữa. Ngày đã bắt đầu tàn. Nhóm 12 đến bên Đức Giê-su thưa Người rằng: Xin
Thầy cho đám đông về để họ vào làng mạc nông trại quanh đây, tìm chỗ trọ và
kiếm thức ăn, vì nơi chúng ta đang ở đây là nơi hoang vắng. Đức Giê-su bảo: Anh
em hãy cho họ ăn. Các ông đáp: Chúng con chỉ có vỏn vẹn 5 cái bánh và 2 con cá,
trừ phi chính chúng con phải đi mua thức ăn cho cả đám dân này. Quả thực có tới
5.000 đàn ông. Đức Giê-su nói với các môn đệ: Anh em hãy cho họ ngả lưng thành
từng nhóm khoảng 50 người một. Các môn đệ làm y như vậy, và cho mọi người ngả
lưng xuống. Bấy giờ, Đức Giê-su cầm lấy 5 cái bánh và 2 con cá, ngước mắt lên
trời, dâng lời chúc tụng, bẻ ra, và trao cho môn đệ để các ông dọn ra cho đám
đông. Mọi người đều ăn, và ai nấy được no nê. Những miếng vụn còn thừa, người
ta thu lại được 12 thúng.
Suy niệm
Câu hỏi gợi ý:
1. Đức
Giê-su đến có phải để lo chuyện ăn uống cho dân chúng không? Tại sao Ngài lại
làm chuyện ấy? Động lực nào thúc đẩy Ngài làm chuyện ấy?
2. Nơi
Đức Giê-su, tình yêu của Ngài đối với dân chúng hay baẻn tính Thiên Chúa của
Ngài làm nên phép lạ?
3. Nơi
bí tích Thánh Thể, chúng ta học được bài học gì?
Suy tư gợi ý:
1. Đức
Giê-su quan tâm đến nhu cầu cụ thể của dân chúng
Ta thấy hoạt động của Đức Giê-su được phối hợp giữa
việc rao giảng Tin Mừng và việc thỏa mãn những nhu cầu cụ thể của dân chúng: Đức Giê-su tiếp đón dân chúng, Ngài nói với
họ về Nước Thiên Chúa, và chữa lành những ai cần được chữa. Điều mà Ngài
rao giảng không phải là một cái gì xa vời đối với dân chúng, mà là một cái gì
thiết thực, phù hợp với những khát vọng của họ. Đó là Tin Mừng về Nước Thiên
Chúa, một tin vui về việc họ được giải phóng, được thoát khổ và hạnh phúc, là
điều mà họ hằng mong ước. Đó là thứ Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn , Tin
Mừng giải phóng cho kẻ bị giam cầm
được tha, cho người mù được sáng mắt, cho kẻ bị áp bức được tự do, v. v.
(Mt 4, 18).
Việc rao giảng ấy luôn luôn đi kèm với nỗi quan tâm
lo lắng của Ngài đến những nhu cầu cụ thể của dân chúng. Nhờ sự quan tâm và
những hành động cụ thể ấy, dân chúng cảm thấy được Ngài yêu thương, chăm nom
săn sóc. Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy tình yêu nhân bản của Ngài:
Thấy trời đã tối, các môn đệ đề nghị Đức Giê-su
giải tán để họ tìm chỗ trọ và kiếm thức ăn. Nhưng Ngài bảo các ông: Anh em hãy cho họ ăn. Thật là một
quan tâm đầy tình người. Và sau đó Ngài đã làm một phép lạ cả thể.
2. Tình
yêu có thể làm nên những phép lạ
Chúng ta đừng nghĩ rằng Ngài làm như vậy vì Ngài có
khả năng làm phép lạ. Còn chúng ta, không làm phép lạ được, nên có gặp trường
hợp tương tự, ta sẽ không dám làm như Đức Giê-su, là quan tâm đến nhu cầu cụ
thể ấy của dân chúng. Đôi khi chúng ta phải nghĩ ngược lại, chính vì Ngài yêu
thương, quan tâm thật sự đến nhu cầu của người khác và quyết tâm thỏa mãn những
nhu cầu ấy với bất cứ giá nào, nên Ngài mới làm nên những phép lạ. Chúng ta
không làm được những phép lạ, vì chúng ta không thật sự yêu thương và quyết tâm
giải quyết những nhu cầu của anh em chúng ta. Nguyễn bá Học có nói: Đường đi khó, không khó vì ngăn sông cách
núi, mà khó vì lòng người ngại núi e sông. Trong bối cảnh này, câu ấy có
nghĩa: Đừng sợ rằng ta không thể làm được điều gì giúp anh em, mà hãy sợ rằng
ta không đủ tình thương, không dám hy sinh vượt khó, không dám chấp nhận gian
khổ để thỏa mãn những gì cần thiết cho anh em mình.
Tình thương thật sự có thể làm nên những phép lạ.
Nhiều trường hợp trong lịch sử chứng minh điều ấy. Nếu ta thật sự yêu thương,
quan tâm và nhất quyết giúp đỡ anh em mình khi họ cần, chắc chắn ta vẫn luôn
luôn làm được một cái gì đó ích lợi cho họ. Nếu không đủ tình thương để làm nên
phép lạ, thì hãy cố gắng làm tối đa trong khả năng của mình. Nếu không đủ tình
thương để cố gắng tối đa, thì chí ít cũng nên làm những gì tối thiểu: có còn
hơn không! Nếu ta hoàn toàn thờ ơ không làm gì cả trước nhu cầu thực tế của anh
em, thì tình yêu của ta có hơn gì những người mà ta cho là phường tội lỗi?
Trong họ, biết bao người đã tỏ ra có nhiều tình thương hơn ta (xem dụ ngôn
người Sa-ma-ri nhân hậu, Lc 10,29-37).
3. Đừng
chỉ quan tâm đến nhu cầu thiêng liêng của người khác, mà không quan tâm đến nhu
cầu cụ thể và thiết thực của họ
Mục đích chính của Đức Giê-su khi đến trần gian là
để rao giảng Nước Trời, chứ không phải là để cứu đói, chữa bệnh, trừ quỷ, hay
nói chung là cứu khổ về phần xác. Nhưng Ngài đã quan tâm rất nhiều tới những
việc này. Thánh Phê-rô đã nói lên điều ấy: Đi tới đâu là Người thi ân giáng phúc tới đó, và chữa lành mọi kẻ bị ma
quỉ kiềm chế (Cv 10,38).
Rất nhiều Ki-tô hữu lo lắng đến những nhu cầu
thiêng liêng của người khác: lo cho người ta biết Chúa, biết sống đạo đức, ăn
ngay ở lành, làm lành lánh dữ, biết chăm sóc đến đời sống nội tâm, v.v. Điều ấy
rất quí rất tốt, và cũng hết sức cần thiết. Tuy nhiên, trong số những Ki-tô hữu
nhiệt thành ấy, có khá nhiều Ki-tô hữu chỉ quan tâm lo cho tha nhân những việc
thiêng liêng ấy mà thôi, không hề nghĩ đến những nhu cầu thiết thực, cụ thể
trước mắt và rất cấp bách của những người gần gũi chung quanh họ. Chính vì thế,
những người được họ quan tâm lo những việc thiêng liêng, không cảm nhận được
tình thương của họ một cách cụ thể. Điều ấy làm cho những cố gắng tốt đẹp của
họ về mặt thiêng liêng bớt hữu hiệu.
Thiết tưởng một người được đức ái đích thực thúc
đẩy, sẽ không phục vụ tha nhân theo kiểu công
chức, nghĩa là chỉ phục vụ một số đối tượng nào đó, trong một khía cạnh
nào đó, trong một số giờ nào đó mà mình được chỉ định phục vụ. Vì thế, họ không
quan tâm phục vụ những đối tượng khác, trong những khía cạnh khác, vào những
giờ khác, cho dù có những người cần được họ chăm sóc, phục vụ, nhưng lại vượt
ngoài những hạn định ấy. Người có tình yêu đích thực vẫn có thể chọn một loại
đối tượng để phục vụ, trong một khía cạnh nào đó mà mình chuyên môn, v.v. Tuy
nhiên, trong những trường hợp cần thiết mà đức bác ái đòi hỏi, người ấy vẫn có
thể phục vụ những đối tượng khác, trong những khía cạnh khác, vào bất kỳ giờ
giấc nào. Một người có tình yêu đích thực, có đức ái đích thực, không tự giới
hạn lòng yêu thương, sự phục vụ của mình, nhất là trong những trường hợp đặc
biệt cần đến lòng yêu thương và sự phục vụ của mình. Một người chuyên phục vụ
tha nhân về mặt tâm linh, vẫn nên quan tâm đến những nhu cầu cụ thể của họ.
4. Hãy
noi gương Thánh Thể
Nói tới Thánh Thể, chúng ta thường nghĩ tới việc
phải làm sao để nhận được từ Thánh Thể những ơn cần thiết cho mình. Nhưng thiết
tưởng chúng ta không nên bỏ qua một bài học tuyệt vời và rất quan trọng của
Thánh Thể là sự quên mình và tính vị tha. Không có gì tỏ ra quên mình và vị tha
cho bằng trở nên của ăn cho người khác, hay saün sàng để cho người khác ăn mình. Thật vậy, đồ ăn hiện hữu vì
người ăn nó, chứ không hiện hữu một
chút xíu nào vì bản thân mình cả. Tất cả mọi sự, để trở thành đồ ăn thì
đều phải chết đi mới có thể nuôi sống người ăn mình. Bản chất của đồ ăn chính
là chết đi để nhờ đó người khác được sống, bị tiêu diệt để nhờ đó người khác
tồn tại. Thông thường, chúng ta có khuynh hướng bắt người khác phải vì mình,
biến họ thành phương tiện hay công cụ phục vụ cho mình. Biến mình thành đồ ăn
thì hoàn toàn đi ngược lại khuynh hướng thông thường ấy: saün sàng hiện hữu vì
người khác, saün sàng chấp nhận làm phương tiện hay công cụ vì hạnh phúc đời
này hay đời sau của những người mình yêu thương. Danh ngôn Pháp có câu: Aimer, cest permettre dabuser (yêu là
cho phép người mình yêu lợi dụng mình).
Cả cuộc đời Đức Giê-su là một thứ đồ ăn: Ngài hiện
hữu không phải vì bản thân Ngài, mà hoàn toàn vì Thiên Chúa và vì con người.
Ngài đã chết để con người được sống, đã tự hủy để con người được tồn tại, đã
đau khổ để con người hạnh phúc, đã tự hạ để con người được nâng lên, đã chấp
nhận bị đối xử như người tội lỗi để làm cho con người trở nên thánh thiện, v.v.
Ngài hiện hữu, Ngài làm mọi sự đều vì người khác, chẳng vì mình một chút nào.
Và Ngài đã biểu hiện tính chất là của
ăn một cách cụ thể và tuyệt vời khi lập bí tích Thánh Thể. Chúng ta ăn
Ngài, nhưng chúng ta đừng quên bắt chước Ngài trong tính chất ấy. Ngài đã yêu
cầu chúng ta: Anh em hãy làm như Thầy
vừa làm, để tưởng nhớ đến Thầy. Tưởng nhớ ở đây không gì tốt hơn và ý
nghĩa hơn là bắt chước Ngài trong tính chất ấy: Hãy trở nên đồ ăn cho những
người chung quanh mình, nhất là những người sống gần mình nhất.
Cầu
nguyện
Lạy Chúa Giê-su Thánh Thể, xin hãy ban cho con
nhiều tình yêu hơn, để con bắt chước Chúa, là trở nên của ăn cho những người
chung quanh con, bằng cách quên mình đi để sống vì họ, cho họ. (JK)