CHÚA NHẬT 16 QUANH NĂM C ,2004
(Lu-ca 10: 38-42)
Bài Tin Mừng Chúa Nhật trước
đã trình bày đề tài tình yêu trong chiều kích tuyệt đối của nó: yêu mến Thiên Chúa với hết cả con người của
ta và yêu thương tha nhân như chính bản thân ta. Dụ ngôn người Sa-ma-ri tốt lành đã trả lời vấn nạn ai là người
thân cận: đó là người thực thi lòng
thương xót đối với người khác. Dường
như thánh Lu-ca, qua câu truyện gia đình Bê-ta-nia tiếp đãi Chúa Giê-su, muốn
tiếp tục đề tài về tình yêu và cho chúng ta thấy chính Chúa Giê-su là “người
thân cận” của ta. Chị Mác-ta và Ma-ri-a
là hai người yêu mến Chúa và biểu lộ tình yêu của họ mỗi người mỗi cách. Yêu mến bằng việc phục vụ hiếu khách hoặc
yêu mến qua việc sống sự hiện diện, hoặc nói khác đi yêu mến qua những sinh
hoạt bề ngoài hay qua việc lắng nghe chiêm niệm. Cách nào cũng tốt, nhưng Chúa Giê-su xác nhận cách thứ hai là tốt
nhất. Nếu Chúa Giê-su đích thực là
“người thân cận” của ta vì Người tỏ lòng thương xót ta, thì ta phải chọn cách
tốt nhất để đáp lại tình yêu ấy.
a) Chúa Giê-su là người thân cận của ta
Kể dụ ngôn người Sa-ma-ri
tốt lành, Chúa Giê-su đi tới kết luận:
người thân cận là người thực thi lòng thương xót đối với người gặp
nạn. Dụ ngôn là câu truyện mở ra nhiều
ý nghĩa khác nhau, tùy theo người nghe hiểu thế nào theo khả năng của họ. Nhưng theo Chúa Giê-su, ý nghĩa về người
thân cận phải mang tinh thần chủ động, nghĩa là ta phải trở nên người thân cận
của anh chị em bằng cách thực thi lòng thương xót đối với họ. Hiểu như thế, thì ai sẽ là người thân cận
đích thực và gương mẫu của ta nếu không phải là chính Chúa Giê-su? Đúng vậy, bởi vì Chúa Giê-su tỏ lòng thương
xót ta.
Trước hết, Chúa Giê-su là
lòng thương xót của Thiên Chúa đã nhập thể, đã trở nên người phàm. Thánh Phê-rô trong bài giảng tại nhà ông
Co-nê-li-ô đã nói về Chúa Giê-su thực thi lòng thương xót như sau: “Đức Giê-su xuất thân từ Na-da-rét, Thiên
Chúa đã dùng Thánh Thần và quyền năng mà xức dầu tấn phong cho Người. Đi tới đâu là Người thi ân giáng phúc tới
đó, và chữa lành mọi kẻ bị ma quỷ kiềm chế, bởi vì Thiên Chúa ở với Người” (Cv
10:38). Động lực khiến Người dấn thân
cho sứ vụ cứu thế là vì yêu mến.
Tình yêu của Chúa Giê-su
vượt qua mọi ngăn cách để đến với ta là những người gặp nạn. Ta đã bị tội lỗi đánh cho “nhừ tử, nửa sống
nửa chết.” Ta mang những thương tích do
tội lỗi gây ra. Nhưng Chúa Giê-su đã
đến. Người không tránh qua bên kia mà
đi, nhưng Người chăm sóc ta và chữa lành ta là kẻ bị ma quỷ kiềm chế. Người đã trả một giá vô cùng đắt để giải
phóng ta bằng cái chết của Người trên thập giá.
b) Đáp
lại tình yêu và lòng thương xót của Chúa Giê-su
Chúa Giê-su đã trút bỏ vinh
quang Thiên Chúa để trở nên giống phàm nhân và làm người thân cận của ta. Người muốn ta cũng phải làm người thân cận
của Người, không phải để thực thi lòng thương xót cho chính Người mà là cho anh
chị em của Người đang sống bên cạnh ta.
Tới đây ta nhận thấy sự liên kết câu truyện chị em cô Mác-ta với câu
truyện người thông luật ở điểm là yêu mến Chúa và yêu thương tha nhân là hai
điều không thể tách rời.
Tuy nhiên cách đáp lại tình
yêu Chúa nơi chị em cô Mác-ta lại cho ta một bài học độc đáo. So sánh giữa cách “lăng xăng nhiều chuyện”
để phục vụ cơm nước của chị Mác-ta với cách “cứ ngồi bên chân Chúa mà nghe lời
Người dạy” của chị Ma-ri-a, Chúa Giê-su đưa ra một khẳng định khiến ta phải suy
nghĩ tự hỏi, đó là “Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi.” Các nhà chú giải Kinh Thánh hiểu chuyện cần
thiết đây là phải đặt lời của Chúa lên trên mọi lo toan trần thế. Chị Ma-ri-a đã lựa chọn sự cần thiết này,
nên chị dẹp mọi chuyện khác sang một bên để có thì giờ hoàn toàn hiện diện bên
Chúa.
Nói đến sống sự hiện diện là
nói tới chiêm niệm. Ta thường hiểu lầm
sống chiêm niệm là lối sống chỉ dành cho những vị tu hành ẩn mình trong tu
viện, chứ người đời làm sao mà chiêm niệm giữa bao công việc bận rộn của cuộc
sống hằng ngày. Tu đức học ngày nay
nhấn mạnh tới chiêm niệm của người giáo dân, không chỉ là việc chiêm niệm, hành
vi chiêm niệm, nhưng là thái độ chiêm niệm.
Ta có thể bận rộn công việc, nhưng cũng có thể dành đôi ba phút để hoàn
toàn hiện diện trước mặt Chúa. Vừa làm
việc ta vừa đặt mình trong sự hiện diện của Chúa, ý thức mình đang làm việc
trước mặt Chúa. Có tác giả tu đức gọi
lối sống này là “Noisy contemplation” nghĩa là mình vẫn có thể để cho Chúa hiện
diện với mình và mình hiện diện với Chúa giữa những ồn ào của cuộc sống. Nhiều khi ta quá để ý tới việc giục lòng tin
Chúa hiện diện trước mặt ta mà quên là ta cần phải cố gắng hoàn toàn hiện diện
trước mặt Chúa, đừng để cho xác đang ở trong nhà thờ nhưng lòng trí thì bận rộn
với những chuyện khác! Ta có thể hình
dung cảnh chị Ma-ri-a đang ngồi dưới chân Chúa. Khách mời lui tới. Các
tông đồ ông nào cũng ăn to nói lớn. Chị
Mác-ta đang khua nồi niêu xoong chảo...
Vậy mà trước mặt chị Ma-ri-a chỉ có Chúa Giê-su thôi, và trước mặt Chúa
cũng chỉ có chị Ma-ri-a thôi. Hai người
đã hoàn toàn hiện diện với nhau. Người
nói kẻ nghe, hoàn toàn chăm chú và vui hưởng sự hiện diện của nhau. Đúng là Ma-ri-a đã chọn phần tốt nhất
rồi! Đúng là một sự bình an, một thứ
bình an chỉ có Chúa Giê-su mới ban cho ta (Ga 15:27)! Sự chiêm niệm được hiểu một cách đơn giản như vậy và nếu thế thì
ai cũng có thể thực hành được trong cuộc sống bận rộn của mình. Ta thường nghe câu truyện cha thánh Gio-an
Ma-ri-a Vianney và một ông lão là giáo dân của ngài. Chiều nào cha cũng thấy ông lão ở trong nhà thờ, im lặng. Cha hỏi ông cầu nguyện với Chúa thế
nào. Ông thưa: “Con nhìn Chúa và Chúa nhìn con” (Je l’avise
et Il m’avise). Đấy là chiêm niệm.
c)
“Chị lo lắng và lăng xăng nhiều chuyện quá!”
Hẳn đây là một lời nhắc nhở
với đầy lòng yêu mến. Ta cứ nghe cách
Chúa gọi tên chị Mác-ta là biết.
Chúa Giê-su, “người thân cận” dễ
thương của chị Mác-ta đang thực thi lòng thương xót đối với chị. Người muốn giải phóng chị khỏi những ràng
buộc không cần thiết và sắp đặt lại những ưu tiên của cuộc sống. Trong bài giảng trên núi (Mt 6:25-34), Người
đã dạy ta đừng quá lo lắng. Quá lo lắng
và lăng xăng có thể biến ta thành “cái rốn vũ trụ”, làm cho ta có cảm tưởng
mình là người không thể thay thế. Rồi
từ đó nảy sinh nhiều thứ cảm tưởng khác không tốt, nhất là gạt Chúa ra khỏi
cuộc đời mình, quên đi “một chuyện cần thiết mà thôi”, tức là đời sống nội tâm
cầu nguyện và lối sống chiêm niệm.
Ở đâu ta cũng nghe người ta
than: Bận quá! Nhưng ít có người trả lời: tôi đang bận cầu nguyện. Điều quan trọng là ta có làm cho cuộc sống
hằng ngày của mình được quân bình không, nghĩa là có hoạt động như là kết quả của
cầu nguyện và cầu nguyện như là nhu cầu cho hoạt động không.
d) Suy
nghĩ và cầu nguyện
Trong cuốn Prières của cha
Michel Quoist, có một lời nguyện thật hay và giúp ta suy nghĩ.
Tranh thủ
thời gian
“Lạy Chúa, bước ra đường,
con gặp không biết bao nhiêu người...
Họ về, họ đến, họ đi, họ
chạy...
Xe hai bánh chạy...
Xe bốn bánh chạy...
Xe ca-mi-ông chạy...
Cả thành phố chạy...
Các con đường chạy...
Cả thành phố chạy...
Tất cả mọi người chạy...
Họ chạy để khỏi mất thì giờ
Họ chạy theo thời gian
để lấy lại thời gian đã mất
để lời nhiều thời giờ hơn...
Hết mọi người đến bảo là
không có thời giờ...
Nhưng lạy Chúa, con có thời
giờ...
Con có thời giờ riêng của
con.
Tất cả thời giờ mà Chúa đã
ban cho con,
Những năm tháng của đời sống
con,
những ngày của năm tháng con
những giờ của ngày sống con
Tất cả đều thuộc về con.
Con có phận sự phải dùng nó
cho đầy đủ trong bình tĩnh và yên lặng...
Dùng nó cho trọn vẹn, cho
tới phút cuối cùng.
Để dâng lên cho Chúa hầu
Chúa làm lợi cho kẻ khác.
Chiều nay, lạy Chúa, con
không xin Chúa ban cho thêm thời giờ
để làm sự này hay sự khác...
Con chỉ xin Chúa cho con
được ơn này là ơn biết dùng nên thời giờ
Chúa ban cho con, để tận
tình làm những việc mà Chúa muốn cho con làm...”
(Trích trong
cuốn “Suy nghĩ và cầu nguyện”, trang 106)
Lm.
Đaminh Trần Đình Nhi
15-7-2004