CHÚA
NHẬT 27 QUANH NĂM, C (2004)
(Lu-ca
17: 5-10)
Chúa
Giê-su mời gọi ta tin vào Người. Trước
lời mời gọi này, nhiều người Do-thái và các nhà lãnh đạo của họ từ chối không
nhìn nhận Chúa Giê-su cũng như sứ mệnh cứu thế của Người. Trái lại, các môn đệ và Ki-tô hữu thì khẩn
cầu Người: “Thưa Thầy, xin thêm lòng
tin cho chúng con.” Lời cầu xin của các
môn đệ và lời giải thích của Chúa Giê-su giúp ta hiểu được những chiều kích
khác biệt của đức tin. Tại sao ta xin
Chúa thêm lòng tin cho ta? Đâu là sức
mạnh của lòng tin? Ngoài ra, Chúa
Giê-su dùng tỉ dụ người đầy tớ làm việc bổn phận để làm sáng tỏ ý nghĩa nào về
lòng tin của ta?
a) Lòng tin là một ân huệ Chúa ban
Giáo
lý Công giáo gọi đức tin là nhân đức đối thần, nghĩa là chính Thiên Chúa mới là
đối tượng của lòng tin. Đức tin không
khởi đầu từ nơi ta, nghĩa là không phải tự ta muốn tin vào Chúa mà là Chúa muốn
ta hãy tin vào Người. Nhưng tại sao
Người muốn ta phải tin vào Người? Bởi
vì Người có tất cả những đặc tính để ta có thể nhìn nhận Người là Đấng nào, phó
thác mọi sự trong tay uy quyền của Người và nhất là có thể lãnh nhận tình yêu
Người dành cho ta. Tất cả những đặc
tính ấy làm cho Người trở nên đối tượng lòng tin của ta. Người đã tỏ mình cho ta biết về Người, đó là
một ân huệ cho ta và là khởi đầu cho một mối quan hệ Người muốn thiết lập giữa
Người với ta. Vì thế, đức tin có hai
phía: về phần Chúa, Người là Đấng
“trung thành” trong giao ước Người thiết lập với ta; về phần ta, ta có bổn phận
phải đáp lại lòng trung thành của Người.
Người muốn đưa ta tới cùng đích của đời ta là được cứu rỗi và sống bên
Người mãi mãi.
Đức
tin có lịch sử của nó, lịch sử gắn liền với lịch sử của một dân tộc. Ông Áp-ra-ham, cha các kẻ tin, đã được Thiên
Chúa tuyển chọn để làm tổ phụ dân tộc Do-thái vì ông “đã tin vào Thiên Chúa”
(St 15:6). Người gọi ông thi hành sứ
mệnh dẫn đầu một dân tộc để chuẩn bị cho toàn thể nhân loại đón nhận ơn cứu
rỗi. Ông là gương mẫu sống đức tin. Cả cuộc đời ông là luôn tín thác vào Thiên
Chúa là Đấng trung thành và toàn năng (Dt 11:11; Rm 4:21). Mà tin vào Thiên Chúa tức là vâng lời Người
và thi hành những điều Người dạy. Tiếp
đến, ông Mô-sê và các ngôn sứ là những người được Thiên Chúa tuyển chọn để hướng
dẫn dân Chúa luôn biết tin vào Người và kế hoạch cứu độ Người sẽ thực hiện qua
dân Do-thái. Thăng trầm của lịch sử đức
tin phản ảnh qua lịch sử dân Do-thái.
Tuy nhiên cuối cùng, theo thiên ý nhiệm mầu của Thiên Chúa, lịch sử đức
tin vẫn diễn tiến theo “kế hoạch yêu thương Người đã định từ trước trong Đức
Ki-tô. Đó là đưa thời gian tới hồi viên
mãn, là quy tụ muôn loài trong trời đất dưới quyền một thủ lãnh là Đức Ki-tô”
(Ep 1:9-10). Đức tin đạt tới mức hoàn
hảo nơi Chúa Giê-su, Người Tôi Tớ đã lên đường đi Giê-ru-sa-lem mà “vâng lời
cho đến nỗi bằng lòng chịu chết” (Pl 2:7t) để dẫn đưa đức tin của ta đến mức
toàn thiện (Dt 12:2).
Như
vậy, đối với một cá nhân hay đối với một dân tộc, lịch sử đức tin là một diễn
tiến quy chiếu về Chúa Ki-tô và đưa ta đến kết hiệp với Người để nhờ Người, với
Người ta đến với Thiên Chúa Cha.
b) Sức mạnh của lòng tin
Các
môn đệ xin Chúa Giê-su thêm lòng tin cho các ông. Hoặc nói khác đi, các ông xin Chúa giúp cho các ông tin vào Người
mỗi ngày một hơn. Lập tức Chúa nói đến
hiệu quả của lòng tin ấy. Dĩ nhiên,
Chúa không có ý nói đến những phép lạ bề ngoài của lòng tin là những điều họ đã
chứng kiến và nhờ đó họ được tăng thêm niềm tin vào Người. Nhưng Chúa muốn nhắm tới những phép lạ xảy
ra trong tâm hồn mỗi người môn đệ theo Người.
Người hứa: “Nếu anh em có lòng tin bằng hạt cải, thì dù anh em có bảo
cây dâu này: Hãy bật rễ lên, xuống dưới
biển kia mà mọc, nó cũng sẽ vâng lời anh em.”
Người muốn nói đến những cây dâu của tính hư nết xấu đã mọc rễ sâu trong
tâm hồn ta từ bao năm, đúng như Người đã khuyến khích ta khi gọi ta làm môn
đệ: “Hãy hối cải và tin vào Tin
Mừng.” Chúa Giê-su bảo ta hãy để cho
lòng tin vào Người tỏa ra sức mạnh tiêu diệt con người tội lỗi của ta, nhờ đó
ta được biến cải thành mẫu người vâng lời và phục vụ giống như Người Tôi Tớ của
Thiên Chúa.
c) Phục vụ trong khiêm tốn
Đức
tin luôn ràng buộc với sứ mệnh. Chúa
Giê-su đã thi hành sứ mệnh cứu thế với đức tin hoàn hảo, tin vào tình yêu của
Chúa Cha. Trước khi chết, Người chỉ
nói: “Thế là đã hoàn tất” (Ga
19:30). Một câu nói ngắn gọn, nhưng
chứa đựng biết bao tâm tình. Tâm tình
cảm tạ Thiên Chúa Cha. Tâm tình biểu lộ
lòng vâng phục. Và tâm tình khiêm tốn,
không kể công hoặc khoe khoang. Sở dĩ
Chúa Giê-su có được những tâm tình ấy là vì suốt cuộc sống trên trần gian, tâm
niệm của Người chỉ là thi hành thánh ý Chúa Cha hoặc tin vào Thiên Chúa Cha mà
thôi. Cho nên hôm nay Người dạy ta cùng
một bài học ấy: “Đối với anh em cũng
vậy. Khi đã làm tất cả những gì theo
lệnh phải làm, thì hãy nói: chúng tôi
là những đầy tớ vô dụng, chúng tôi đã chỉ làm việc bổn phận đấy thôi.”
Tỷ
dụ người đầy tớ chu toàn bổn phận cũng cho ta thấy rõ hơn khía cạnh ân huệ của
lòng tin. Ta có được lòng tin vào Chúa,
đó là ân huệ Chúa ban nhưng không. Mà
Chúa đã dạy: ta nhận được nhưng không
thì cũng hãy cho nhưng không. Nhận lấy
và cho đi là năng động của đức tin được thể hiện trong đời sống phục vụ của
người môn đệ, y hệt như Chúa Giê-su đã lấy tất cả những gì Chúa Cha ban cho
Người mà ban lại cho các môn đệ Người, kể cả sự sống của chính Người. Một đức tin như thế mới đích thực là đức tin
sinh động, chứ không phải đức tin chết (Gc 2:17).
e) Suy nghĩ và cầu nguyện
“Thưa
Thầy, xin thêm lòng tin cho chúng con” là lời cầu nguyện hằng ngày của tôi, hay
chỉ là lời kêu cứu khi tôi gặp khó khăn hoạn nạn? Lời cầu nguyện ấy có đồng nghĩa với lời cầu xin cho tôi “được
biết Chúa Giê-su rõ ràng hơn, yêu mến Người nồng nàn hơn và theo Người mỗi ngày
một trung thành hơn”?
Tôi
thử nhìn lại lịch sử đức tin của tôi.
Đức tin của tôi đang ở giai đoạn nào?
Vẫn còn là những điều học thuộc lòng về đạo hay đã bắt đầu tiến đến giai
đoạn nhận ra ơn gọi và sứ mệnh của mình, để sống mối quan hệ với Chúa?
“Những
cây dâu” nào trong tôi cần phải bật rễ đi để tôi trồng những cây trái sinh hoa
quả đạo đức?
Cầu nguyện:
“Lạy
Chúa Giê-su,
con
chẳng dám xin đi trên mặt nước như Phê-rô,
nhưng
nhiều khi con cảm thấy
sống
đức tin giữa lòng cuộc đời
chẳng
khác nào đi trên mặt nước.
Có
bao thứ sóng gió đẩy đưa và lôi cuốn.
Có
bao cám dỗ cuốn hút con vô vực sâu.
Cả
sự nặng nề của thân xác con cũng kéo ghì con xuống.
Đi
trên mặt nước cuộc đời chẳng mấy dễ dàng.
Nhiều
khi con thấy mình bàng hoàng sợ hãi.
Xin
cứu con khi con hầu chìm.
Xin
nắm lấy tay con khi con quỵ ngã.
Xin
nâng đỡ niềm tin yếu ớt của con,
để
con trở nên nhẹ tênh
mà
bước những bước dài hướng về Chúa.
A-men.”
(Trích
RABBOUNI, lời nguyện 55)
Lm. Đaminh Trần Đình Nhi