Chủ đề : Cuộc sống đời sau
- Bài đọc I : Chuyện một bà mẹ và 7 đứa con tử
đạo. Họ dám chết bởi vì họ tin tưởng vào cuộc sống mai sau.
- Tin Mừng : Chúa Giêsu tranh luận với nhóm
Sađóc về vấn đề kẻ chết sống lại.
I. Dẫn vào Thánh lễ
Anh chị em thân mến
Lời Chúa hôm nay bảo đảm có một cuộc sống đời sau.
Đây quả là một niềm hy vọng vui mừng, vì cuộc sống nơi dương thế của chúng ta
sẽ không kết thúc bằng ngõ cụt, nhưng đó là một chặng của cuộc hành trình về
cõi trường sinh.
Chúng ta hãy cầu xin Chúa giúp chúng ta sống thế
nào để sẽ mãi hạnh phúc trong cuộc sống đời sau.
II. Gợi ý sám hối
- Chúng ta quá lo cho cuộc sống đời này mà ít lo
cho cuộc sống đời sau.
- Nhiều khi chúng ta sống buông thả như không có
đời sau.
- Cách sống của chúng ta chưa thuyết phục được
người khác rằng chúng ta thực sự tin có đời sau.
III. Lời Chúa
1. Bài đọc I (2 Mcb 7,1-2.9-14)
Chuyện kẻ về thời vua Antiochus bắt đạo. Một bà mẹ
và 7 người con thà chịu chết chứ không chịu bỏ đạo Chúa.
Trích đoạn này chỉ ghi cái chết của 4 người con
đầu. Lời họ nói với vua đều khẳng định Chúa sẽ cho họ hưởng sự sống đời đời.
2. Đáp ca (Tv 16)
Đây là lời cầu nguyện của những vị tử đạo :
"Con đã sống công minh chính trực, con sẽ được trông thấy mặt Ngài. Khi
thức giấc, con sẽ được thỏa tình chiêm ngưỡng Thánh nhan"
3. Tin Mừng (Lc 20,27-38)
Mặc dù nhóm Sađốc không tin vào cuộc sống đời sau,
nhưng qua lời lẽ của họ, người ta thấy họ có một quan niệm hết sức vật chất về
cuộc sống ấy : ở đời sau người ta cũng cưới vợ lấy chồng sinh con và hưởng
thụ tất cả những lạc thú như đời này.
Trong câu trả lời, Chúa Giêsu vừa xác nhận có cuộc
sống đời sau, vừa cho biết ý nghĩa của cuộc sống ấy :
- Đời sau người ta sẽ bất tử, do đó không cần lưu
truyền nói giống, cho nên cũng không cần cưới vợ lấy chồng.
- Hạnh phúc duy nhất và cũng là quan tâm duy nhất
của người sống đời sau là được ở gần Chúa để phụng thờ Chúa, như các thiên thần
vậy.
4. Bài đọc II (2 Tx 2,16--3,5) (Chủ đề phụ)
Như đã trình bày (Chúa nhựt 31), nhiều tín hữu ở
giáo đoàn Thêxalônica nghĩ rằng sắp tận thế nên đâm ra lười biếng không làm
việc và sống buông thả. Trong trích đoạn của Chúa nhựt trước, thánh Phaolô đã
vạch ra sai lầm của suy nghĩ đó.
Trong trích đoạn hôm nay, Thánh Phaolô nói
thêm : dù không biết chắc khi nào tận thế và Chúa lại đến, nhưng các tín
hữu phải sống trong niềm hy vọng và mong chờ Chúa đến. Chính niềm hy vọng và sự
mong chờ này sẽ là động lực giúp họ sống tốt.
IV. Gợi ý giảng
1. Bàn về việc sống lại
Ông Cao Bá Quát là một nhà thơ nổi tiếng trong lịch
sử văn học Việt nam. Ông có mấy câu thơ như sau :
"Ba vạn sáu ngàn ngày lá mấy,
Cảnh phù du trông thấy những nực cười.
Thôi công đâu chuốc lấy sự đời
Tiêu khiển một vài chung lếu láo."
Ông Cao Bá Quát nghĩ rằng đời người vắn vỏi lắm,
dài nhất là 3 vạn 6 ngàn ngày, nghĩa là 100 năm, sau đó thì ai cũng chết, mà
chết là hết tất cả, cho nên còn sống bao lâu thì hãy lo ăn chơi, hưởng thụ,
uống rượu "tiêu khiển một vài chung lếu láo". Những người không tin
có đời sau, không tin có sống lại, thì cũng dễ rơi vào quan niệm sống buông
trôi hưởng thụ như 4 câu thơ trên.
Thời Chúa Giêsu, phái Sađốc cũng không tin có sống
lại. Họ dựa vào một khoản luật của Môisen để đặt ra một câu chuyện lố bịch chế
diễu Chúa Giêsu. Khoản luật đó là : Nếu một người đàn ông có vợ nhưng chưa
có con mà bị chết, thì một trong các anh em trai của người chết ấy phải cưới
lấy người vợ góa. Khi sinh ra đứa con đầu tiên thì phải coi đứa con đó là con
của người đàn ông quá cố. Mục đích của luật này là để cho người quá cố không bị
tuyệt tự, nhưng vẫn có con lưu truyền nòi giống cho mình. Phái Sađốc đã căn cứ
vào khoản luật này và đặt ra một thí dụ : gia đình kia có 7 anh em trai,
người thứ nhất lấy vợ rồi chết mà không có con, người thứ hai lấy người vợ góa
đó nhưng cũng chết không con, tới người thứ 3, thứ tư, năm, sáu bảy đều lần
lượt lấy người vợ góa đó và cũng đều chết mà không có con. Vậy khi sống lại thì
người đàn bà này sẽ là vợ của ai ? Ta thấy mục đích của phái Sađốc là mỉa
mai cho rằng sống lại là việc phi lý, vì nếu có sống lại thì chẳng lẽ người đàn
bà ấy có thể là vợ chung của tập thể 7 anh em kia sao ?
Nhưng Chúa Giêsu đã trả lời rất khôn khéo. Ngài vừa
chứng minh rằng sống lại là một điều hợp lý, vừa giải thích cho người ta hiểu
tình trạng của kẻ sống lại như thế nào.
Trước hết, để chứng minh rằng sống lại là điều hợp
lý, Chúa Giêsu lập luận rằng Thiên Chúa là Chúa của kẻ sống, chỉ có kẻ sống mới
hưởng được tình thương của Chúa. Nếu chết mà là hết thì đâu còn hưởng được tình
thương của Chúa. Do đó Chúa phải cho kẻ chết sống lại để họ có thể hưởng được
tình thương Chúa mãi mãi. Lập luận này đối với chúng ta ngày nay thì hơi lạ
tai, khó hiểu. Nhưng đối với người Do thái thời đó, vốn rất quen với quan niệm
"Thiên Chúa là Chúa của kẻ sống", thì họ đều dễ hiểu. Tóm lại là Chúa
Giêsu khẳng định rằng kẻ chết sẽ được sống lại.
Rồi Chúa Giêsu còn giải thích tình trạng của kẻ
sống lại như thế nào : đó là một cuộc sống khác hẳn cuộc sống bây giờ,
không còn cưới vợ lấy chồng nữa ; cuộc sống ấy rất thánh thiện như
"các thiên thần" cuộc sống ấy rất thân mật với Chúa, kẻ lành sống lại
được coi là "Con của Chúa".
Tóm lại, bài Tin Mừng hôm nay thuật lại một cuộc
tranh luận về giáo lý giữa phái Sađốc và Chúa Giêsu. Phái Sađốc mỉa mai việc kẻ
chết sống lại, còn Chúa Giêsu thì khẳng định tín điều ấy. Chúng ta chẳng cần đi
sâu vào chi tiết cuộc tranh luận đó làm chi. Điều cần chúng ta quan tâm hơn là
hãy suy nghĩ về niềm tin của mình. Vấn đề thực tế đối với chúng ta là chúng ta
tin có sự sống lại Vậy nếu chúng ta tin có sống lại thì bây giờ chúng ta phải
sống như thế nào ?
Hồi nảy chúng ta đã nghe lại mấy câu thơ của ông
Cao bá Quát với chủ trương còn sống bao lâu thì hãy ăn chơi, hưởng thụ cho tối
đa, kẻo chết rồi sẽ không còn được hưởng thụ nữa. Đây là quan niệm của những
người không tin có sống lại. Vì quan niệm như vậy, cho nên nếu họ có sống buông
thả, chạy theo hưởng thụ thì cũng là hợp lý thôi. Thế nhưng có những người có
đạo mà cũng sống theo kiểu đó, quan tâm duy nhất của họ là chỉ lo ăn, lo mặc,
lo xài, lo mua sắm, lo chơi, lo thỏa mãn những nhu cầu vật chất. Sống kiểu đó
là mâu thuẫn với niềm tin của mình.
Hạng người thứ hai không quá duy vật như số người
vừa kể trên. Tuy họ mãi mê kiếm tiền và rất coi trọng cuộc sống vật chất, nhưng
họ vẫn không quên đời sau. Họ ít đến nhà thờ, ít đọc kinh cầu nguyện, nhưng họ
chịu khó bỏ tiền ra để xin lễ, chịu khó bỏ tiền ra để góp phần xây sửa nhà thờ,
đóng góp tiền bạc khi có những cuộc quyên góp. Bỏ tiền ra như vậy là họ yên
tâm, cho rằng mình đã có bỏ vốn để đầu tư cho đời sau. Có phải đó là niềm tin
vào sự sống lại không ? Có lẽ cũng là niềm tin, nhưng là tin lệch
lạc : hạnh phúc đời sau không phải mua được bằng tiền bạc đâu. Đời này thì
có tiền mua tiên cũng được, nhưng đời sau không phải vậy !
Thiết nghĩ nếu chúng ta tin rằng có sống lại, thì
chúng ta phải thể hiện niềm tin ấy bằng cách sống của mình. Thể hiện thế
nào ?
- Trước hết, ta phải biết đánh giá những biến cố
xảy ra ở đời này bằng cặp mắt đức tin : người không tin thì rất sợ chết, rất sợ
bệnh tật, rất sợ mất mát, rất sợ đau khổ. Họ sợ như vậy là phải, bởi vì họ
không biết có đời sau. Chỉ có mỗi đời này mà đời này lại bệnh tật, mất mát, khổ
sở và chết nữa thì không sợ sao được. Nhưng người có đạo như chúng ta đã tin có
đời sau, đã tin rằng đời này chỉ là tạm, đời sau mới vĩnh viễn, mà cũng sợ như
thế tức là mâu thuẫn với niềm tin của mình.
- Điểm thứ hai để thể hiện niềm tin của mình vào sự
sống lại là chúng ta phải biết phân chia thời giờ của ta để quan tâm chăm lo
mọi mặt :
Dành một phần thời giờ để lo làm ăn sinh sống.
Dành thêm một phần thời giờ khác để gần gũi với con
cái, giáo dục gia đình.
Thêm một phần thời giờ nữa để xây dựng những tương
quan xã hội.
Và chắc chắn cũng phải dành một phần thời giờ để lo
việc đạo, đời sau.
Chúng ta phải nhớ nguyên tắc "Gieo gì thì gặt
nấy" : nếu chúng ta dành hết thời giờ ở đời này để chỉ lo tiền bạc
vật chất thì chúng ta chỉ gặt được tiền bạc vật chất mà thôi ; nếu ta
không dành thời giờ để xây dựng hạnh phúc gia đình thì sẽ không có gì lạ nếu
gia đình ta chẳng hạnh phúc ; nếu ta không đầu tư thờ giờ và công khó để
lo cho đời sau thì mong gì đời sau ta sẽ được hạnh phúc.
Dưới đây là một câu ngạn ngữ phương Tây cho chúng
ta suy nghĩ :
Nếu bạn muốn hạnh phúc một ngày, hãy mua một cái áo
mới
Nếu bạn muốn hạnh phúc một tuần, hãy làm thịt một
con heo.
Nếu bạn muốn hạnh phúc một năm, hãy cưới vợ lấy
chồng.
Nếu bạn muốn hạnh phúc một đời, hãy làm người sống
tử tế
Nếu bạn muốn hạnh phúc một muôn đời, hãy làm người
có đạo tốt.
2. Sống lại
Đoạn Tin Mừng chúng ta vừa nghe đề cập đến vấn đề
kẻ chết sống lại. Mỗi khi chúng ta đọc kinh Tin Kính, chúng ta vẫn tuyên xưng
"Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại". Chúng ta tuyên xưng như
thế và chúng ta tin điều đó dễ dàng. Chứ thực ra vấn đề này không dễ dàng cả
vào thời Chúa Giêsu lẫn ở thời nay.
Thời nay có nhiều người chỉ nghĩ đến vật
chất : ngay cả Thiên Chúa, linh hồn và đời sau họ còn không tin, huống chi
là tin chuyện xác loài người chết rồi mà một ngày kia còn sống lại được. Thời
Chúa Giêsu 2000 năm trước đây cũng thế. Vấn đề kẻ chết sống lại là một tín điều
không phải do trí óc con người lý luận ra, mà do Thiên Chúa mạc khải dần dần
qua dòng thời gian. Ở thời xa xưa, khi mạc khải Chúa chưa tỏ hiện trọn vẹn,
người Do thái cũng tin như những dân ngoại : Họ tin rằng sau khi chết,
phần linh hồn của con người còn tồn tại, tồn tại trong cõi âm phủ tối tăm không
ánh sáng vì thiếu hết mọi hạnh phúc, linh hồn kẻ lành người dữ sau khi chết đều
phải rời vào cõi âm phủ buồn thảm đó. Còn phần xác thì tiêu tan ra, không hy vọng
gì sống lại được. Mãi đến thời anh em nhà Macabê khởi đầu dành độc lập cho đất
nước Do thái, nghĩa là khoảng 100 năm trước Chúa Giáng sinh, mạc khải mới cho
biết xác loài người có ngày sẽ sống lại. Chính vì tin tưởng như thế nên vào
thời này, như đoạn sách thánh lúc nãy thuật lại, có 7 anh em nhà bị bắt và được
dụ dỗ bỏ đạo, 7 anh em saün sàng thà chết phần xác mà không bỏ đạo còn hơn là
chết luôn phần hồn vì tội chối Chúa, vì họ tin chắc rằng xác thể họ sẽ không
chết mãi, nhưng Thiên Chúa sẽ cho sống lại vinh hiển. Tuy đã có mạc khải như
thế, nhưng cho tới thời Chúa Giêsu, vẫn có người còn chưa tin theo. Đại biểu
của những kẻ không tin này là phái Sađóc. Vì không tin, nên khi nghe Chúa Giêsu
giảng về kẻ chết sống lại, họ mỉa mai chế giễu và đến với Chúa đặt ra một câu
hỏi lố bịch cốt ý chọc ghẹo Chúa. Họ lý luận : nếu như ông nói người ta sẽ
sống lại, thì giả sử một nhà kia có 7 con trai, anh cả lấy vợ rồi chết. Và căn
cứ theo luật Môisen thì em kế phải cưới người vợ góa để có con nối dõi tông
đường, nhưng em kế cũng chết mà không con, rồi người thứ ba lấy, rồi cũng chết,
cứ thế cho đến hết 7 anh em. Vậy khi sống lại thì người đàn bà kia là vợ của
ai ? Khi hỏi như thế, nhóm Sađóc dĩ nhiên không cần Chúa trả lời rằng
người đàn bà đó là vợ của ai cả, nhưng muốn Chúa bị bắt bí và phải thú nhận
rằng giáo lý của Ngài về việc kẻ chết sống lại lại là bố bịch và do đó Ngài
phải phủ nhận giáo lý đó để đi theo lập trường của họ. Nhưng trong câu trả lời
của Chúa Giêsu, Ngài chẳng những giải thích rõ hơn về việc kẻ chết sống lại, mà
còn trả lời thẳng về việc ai là chồng của người đàn kia. Đại khái Ngài
bảo : vấn đề kẻ chết sống lại là một điều chắc chắc có căn cứ trên sách
thánh, bởi Thiên Chúa đã phán Ngài là Chúa của Abraham, Isaac và Giacóp, mà
Thiên Chúa không là Chúa của kẻ chết, nhưng là của kẻ sống, cho nên các tổ phụ
đó tuy đã lìa đời nhưng vẫn là kẻ sống và xác thể họ sẽ sống lại. Ngài còn cho
phái Sađóc biết thêm rằng : sau khi sống lại người ta không còn sống theo
những điều kiện của đời này, nghĩa là không còn cưới vợ lấy chồng nữa.
Tất cả đều hướng về Thiên Chúa là nguồn hạnh phúc
thật và độc nhất, và là Đấng thoả mãn mọi nhu cầu của con người.
Chúng ta là con cái Chúa đang sống giữa con cái thế
gian như một nhóm thiểu số, như hạt muối trong lòng đất, như nhúm men trong
thúng bột. Nhiều người sống quanh ta không tin ở đời sau, và đa số không tin
việc sống lại. Do chính cuộc sống chúng ta, chúng ta phải làm sao chứng minh
cho mọi người về niềm tin của chúng ta :
- Tin rằng xác loài người ngày sau sống lại, chúng ta
phải làm sao cho mọi người thấy rằng ngoài những giá trị thuần túy vật chất như
tiền bạc, cơm áo, tài sản. còn có những giá trị tinh thần quý báu hơn như thà
mất mát một vài tiện ích vật chất chứ không phạm tội để bảo tồn những giá trị
thiêng liêng của linh hồn ; như không khư khư nhắm mắt chỉ lo cho đời sống
vật chất đời này mà quên mất đời sau : như dám quảng đại hy sinh chia xẻ
những của cải mình đang có cho những người anh chị em túng thiếu hơn mình.
Một niềm tin chắc chắn và được biểu lộ qua một cuộc
sống cụ thể như thế mới làm cho những kẻ không tin không chế nhạo chúng ta và
còn có sức lôi kéo họ đi theo niềm tin của chúng ta về việc kẻ chết sống lại.
3. Hợp hoan bên chúa
Trong kho tàng chuyện cổ Tây Phương có câu chuyện
Công Chúa Ngủ Trong Rừng, như sau :
Ngày xưa, ở vương quốc hạnh phúc, nhà vua sinh dược
một công chúa xinh đẹp tuyệt vời. Lễ rửa tội được tổ chức linh đình, có mặt các
bà tiên, mỗi bà tặng công chúa một món quà là một lời chúc tốt đẹp.
Dù không được mời, mụ phù thuỷ ghen tức cũng bay
đến, lẩm bẩm câu chúc dữ : "Một ngày kia, cái suốt chỉ sẽ đâm vào
tay công chúa và con bé sẽ phải chết !" Nói xong, mụ bay vù qua
cửa sổ. Mọi người buồn bã mất vui. May thay, vẫn còn một bà tiên tốt bụng đến
trễ. Bà nói : "Ta sẽ làm nhẹ lời nguyền rủa ấy : cô bé sẽ
không chết, chỉ ngủ một giấc rất dài cho tới khi một hoàng tử tốt lành, sẽ đến
nắm tay kéo dậy và cô sẽ được hạnh phúc mãi mãi".
Để đề phòng, nhà vua cấm tất cả thần dân không được
dùng suốt chỉ. Nhưng một ngày kia, công chúa lên tháp canh trong lâu dài và
thấy một bà lão đang khâu vá. Cô xin bà cho khâu thử. Thế là cái suốt chỉ đâm
vào tay cô, cô lăn ra chết !
Người ta đặt xác cô giữa lâu đài, nhưng các bà tiên
tốt bụng đã khiến mọi người trong lâu đài cùng bất tỉnh cả. Một rừng cây mọc
lên che phủ lâu đài. Hoa thơm cỏ lạ bốn mùa đua nở.
Thời gian trôi đi đã ngàn năm, cho đến khi một
hoàng tử lịch lãm đi săn ngang qua đó, khám phá ra toà lâu đài. Chàng bước vào
ngỡ ngàng trước nàng công chúa xinh đẹp. Hoàng tử đã quì gối cầm tay công chúa,
và nàng liền mở mắt chỗi dậy. Thế là hoàng tử rước công chúa về kinh thành, xin
vua cha tổ chức lễ cưới linh đình.
Công chúa ngủ trong rừng chính là hình ảnh của n
người tín hữu an nghỉ trong ơn nghĩa Chúa. Sau một giấc ngủ dài họ được Thái Tử
Bình An là chính Đức Giêsu cầm tay nâng dậy, đưa vào tiệc cưới Nước Trời.
Chúng ta tin rằng con người sinh ra là để được sống
mãi. Cái chết chỉ là ngưỡng cửa đưa vào chốn trường sinh. Một người chỉ có một
cuộc sống, cuộc sống đời này sẽ quyết định số phận cho cuộc sống đời sau. Việc
thiện hôm nay sẽ bảo đảm cho hạnh phúc ngày mai. Đúng như câu hát của nhạc sĩ
Hoàng Vân : "Ngày mai, đang bắt đầu từ ngày hôm nay".
Phái Xa đốc, trái lại, họ không tin có sự sống đời
sau, cũng chẳng tin có sự sống lại, nên hôm nay, Đức Giêsu muốn tiết lộ một vài
hình ảnh của đời sau rằng : Đời sau khác hẳn đời này. Người ta "không
cưới vợ cũng chẳng lấy chồng" vì con người "không thể chết
nữa", nên đâu cần sinh con để bảo tồn nòi giống, nhưng được "sống
ngang hàng với các thiên thần" là ca ngợi, tôn vinh và phụng thờ Thiên
Chúa. Họ được thông phần vinh quang Thiên Chúa (Lv 12,7), được dự phần vào dòng
dõi của Người (1 Ga 3,2). Thánh Phao lô viết : "Việc kẻ chất sống lại
cũng vậy. Gieo xuống thì hư nát, mà chỗi dậy thì bất diệt, gieo xuống thì hèn hạ,
mà chỗi dậy thì vinh quang ; gieo xuống thì yếu đuối, mà chỗi dậy thì mạnh
mẽ ; gieo xuống là thân thể có sinh khí mà chỗi dậy là thân thể có thần
khí (1 Cr 15,42-44).
Quả thật, con người được Thiên Chúa dựng nên để
sống trường sinh, nhưng vì sự đố kî của ma quỷ mà cái chết đã nhập vào thế
gian. Thánh ý của Thiên Chúa không thể mãi mãi bị ngăn chặn bởi quỷ ma, con
người phải tìm lại được quyền bất tử của mình. Đó là sự sống lại của những
người Công chính. Lời than thở của thánh Augúttinô đã nói lên nỗi khát khao của
con người : "Lạy chúa Chúa đã dựng nên con hướng về Chúa, nên lòng
con luôn khắc khoải cho đến khi được nghỉ an trong Chúa".
Chúa dựng nên con người để hưởng hạnh phúc, nhưng
không chỉ là hạnh phúc tạm bợ đời này, mà là hạnh phúc vĩnh hằng đời sau. Sống
là một cuộc hành trình tiến về đời sau, về với Đấng hằng đợi chờ và yêu thương
ta mãi mãi. Đừng mải mê với những hạnh phúc mau qua, những lạc thú bên đường mà
quên cùng đích cuộc đời là phải gặp được Chúa. Có những kẻ sống như thể mình
không bao giờ phải chết, họ ung dung hưởng thụ những thú vui trần tục. Họ đã
chết ngay khi còn đang sống. Có những kẻ sống như thể chỉ có đời này, tự điển
sống của họ không có từ "đời sau". Họ đang sống mà như đã
chết.
Lạy Chúa, chúng con cảm tạ Chúa đã cho chúng con
hưởng dùng hương hoa của cuộc sống cùng với bao niềm vui và hạnh phúc. Chúng
con chỉ xin Chúa thêm một ân huệ này là cho chúng con được về hợp hoan với Chúa
đời đời. Amen. (Thiên Phúc, "Như Thầy đã yêu", Năm C)
4. Nghĩ đến sự chết
Càng lớn tuổi, chúng ta càng ý thức rằng cuộc sống
này ngắn ngủi chừng nào và mỏng dòn như thế nào. Và mặc dù không muốn, càng
ngày chúng ta càng nghĩ nhiều về sự chết.
Việc suy nghĩ về sự chết không nên khiến chúng ta
bi quan sợ hãi, trái lại nó phải đem đến cho chúng ta những giá trị tích
cực : nhờ nghĩ đến cái chết, chúng ta sẽ yêu quý sự sống hơn ; nhờ
nghĩ đến cái chết, chúng ta sẽ đón nhận từng ngày sống như một món quà ;
và khi đón nhận cuộc sống như một món quà của Chúa, chúng ta sẽ sống mà yêu
thương Chúa nhiều hơn.
Chết chỉ là một bước đi qua. Tuy nhiên, nhiều người
nghe nói thế mà không muốn tin như thế. Thực ra, có gì khó tin lắm đâu ?
Cuộc đời vốn gồm nhiều bước đi qua :
- Khi chúng ta sinh ra là chúng ta đi qua từ cuộc
sống trong bụng mẹ sang cuộc sống bên ngoài.
- Khi chúng ta đến trường là chúng ta đi qua từ
cuộc sống ở gia đình nhỏ bé sang cuộc sống ở một cộng đồng rộng lớn hơn.
- Khi lập gia đình là chúng ta đi qua từ cuộc sống
một mình sang cuộc sống lứa đôi.
- Khi đến tuổi hưu dưỡng, chúng ta sẽ đi qua từ cuộc
sống làm việc sang cuộc sống nghỉ ngơi.
Mỗi một bước đi qua đều dẫn đến một tình trạng vừa
giống như chết nhưng đồng thời cũng là một cách sống mới.
Thì ngày chết cũng vậy : đó là một bước đi qua
từ cuộc sống đời này sang cuộc sống đời sau.
5. Làm chứng cho niềm tin vào cuộc sống đời sau
Bà mẹ và 7 người con trong bài đọc I là những người
tin có sự sống đời sau, và họ đã làm chứng cho niềm tin ấy bằng cách dám hy
sinh mạng sống đời này.
Chúng ta tuyên xưng có sự sống đời sau thì chúng ta
cũng phải làm chứng cho người khác thấy là chúng ta thực sự tin như thế. Người
khác mà thấy chúng ta thực sự tin như thế thì có thể họ mới tin theo chúng ta.
Nhưng thế nào là chứng tỏ mình thực sự tin vào cuộc
sống đời sau ?
- Là chúng ta dám từ bỏ những thứ mà cuộc sống đời
này cần.
- Là chúng ta không quá sợ khổ và sợ chết.
- Là trong khi còn sống, chúng ta không chỉ tìm
kiếm những giá trị vật chất để bảo đảm cho đời này, mà còn tìm kiếm cách hăng
say hơn những giá trị tinh thần và đạo đức là bảo đảm cho cuộc sống đời sau.
6. Kinh nghiệm cận tử
Mấy năm gần đây, một số bác sĩ người Đức và Mỹ đã
rất chú ý đến hiện tượng mà họ gọi là "kinh nghiệm cận tử" (near
death experience) : nhiều người vì một tai nạn hay một lý do nào đó đã
ngất đi trong một thời gian khá dài. Về mặt thể lý, coi như họ đã chết. Nhưng
sau đó họ sống lại. Các bác sĩ đã phỏng vấn 1370 người ấy. Trong những điều họ
thuật lại, có những điểm mà ai cũng nhất trí, như sau :
- Cảm nghiệm thứ nhất của những người ấy là thấy
mình rời khỏi thân xác của mình, đòng thời cảm thấy nhẹ nhàng dễ chịu sau khi
rời khỏi thân xác.
- Cảm nghiệm thứ hai là thấy mình đi trong một
đường hầm rất dài. Sau khi đi hết đường hầm thì tới một vùng ánh sáng và gặp
một Đấng tỏa ra ánh sáng. Thứ ánh sáng này sáng hơn mọi thứ ánh sáng họ đã từng
thấy ở trần gian nhưng không chói mắt mà lại rất dễ chịu, đến nỗi họ muốn được
ở mãi trong ánh sáng đó và bên cạnh Đấng tỏa ánh sáng đó.
- Cảm nghiệm thứ ba là được Đấng sáng láng ấy cho
thấy lại cuộc đời của họ, giống như xem một cuốn phim quay tất cả những lời nói
việc làm và suy nghĩ của họ từ hồi có trí khôn cho đến lúc chết. Lúc xem lại
cuốn phim cuộc đời ấy, khi thấy một việc xấu thì tự nhiên lòng họ cảm thấy buồn
và bứt rứt khó chịu, đồng thời đấng sáng láng ấy đánh giá cho họ biết đó là một
việc làm không tốt. Ngược lại khi thấy một việc tốt thì họ cảm thấy vui, dễ
chịu và hạnh phúc, đồng thời đấng sáng láng ấy khen thưởng. Những việc tốt là
những việc đã làm vì lòng yêu thương, những việc xấu là những việc họ đã làm do
động cơ không yêu thương.
- Được ở trong ánh sáng huyền diệu ấy và ở gần đấng
sáng láng ấy, ai cũng cảm thấy vô cùng hạnh phúc nên muốn ở lại mãi, nhưng Đấng
ấy bảo : "Bây giờ con chưa được ở lại, vì con còn nhiều việc bổn phận
phải làm ở trần gian. Vậy con phải về". Và khi đó là lúc họ tỉnh lại.
- Tất cả những người sống lại ấy đều thay đổi cách
sống : từ đó trở đi họ không sợ chết nữa ; họ không coi trọng việc
tìm kiếm danh lợi thú nữa mà chỉ lo chu toàn bổn phận và đối xử với một người
bằng tình thương.
V. Trong Thánh Lễ
- Trước kinh Lạy Cha : Thiên Chúa là
Cha chúng ta và chúng ta là con của Ngài. Ngài dẫn dắt từng bước chân ta đi
trên con đường dương thế này, và cuối cùng Ngài sẽ dẫn chúng ta về nhà Ngài.
Với tất cả lòng tin yêu phó thác, chúng ta hãy cầu nguyện với Ngài.
VI. Giải tán
Xin Thiên Chúa thắp lên trong lòng anh chị em niềm
hy vọng vào cuộc sống đời sau. Xin cho niềm hy vọng ấy là động cơ giúp anh chị
em sống tốt trong từng giây phút của cuộc sống đời này. Lễ xong, chúc anh chị
em luôn bình an.
Lm. Carolo Hồ Bặc Xái