Chúa Nhật thứ 4 Phục Sinh

 (17-4-2005)

Hai loại mục tử trong các thời đại

ĐỌC LỜI CHÚA

·   Cv 2,14a.36-41: (36) Đức Giêsu mà anh em đã treo trên thập giá, Thiên Chúa đã đặt Người làm Đức Chúa và làm Đấng Kitô.

·   1Pr 2,20b-25: (21) Đức Kitô đã chịu đau khổ vì anh em, để lại một gương mẫu cho anh em dõi bước theo Người. (25) Trước kia anh em chẳng khác nào những con chiên lạc, nhưng nay đã quay về với Vị Mục Tử, Đấng chăm sóc linh hồn anh em.

 

·   TIN MỪNG: Ga 10,1-10

Vị Mục Tử nhân lành

 (1) «Thật, tôi bảo thật các ông: Ai không đi qua cửa mà vào ràn chiên, nhưng trèo qua lối khác mà vào, người ấy là kẻ trộm, kẻ cướp. (2) Còn ai đi qua cửa mà vào, người ấy là mục tử. (3) Người giữ cửa mở cho anh ta vào, và chiên nghe tiếng của anh; anh gọi tên từng con, rồi dẫn chúng ra. (4) Khi đã cho chiên ra hết, anh ta đi trước và chiên đi theo sau, vì chúng nhận biết tiếng của anh. (5) Chúng sẽ không theo người lạ, nhưng sẽ chạy trốn, vì chúng không nhận biết tiếng người lạ». (6) Đức Giêsu kể cho họ nghe dụ ngôn đó. Nhưng họ không hiểu những điều Người nói với họ.

 (7) Vậy, Đức Giêsu lại nói: «Thật, tôi bảo thật các ông: Tôi là cửa cho chiên ra vào. (8) Mọi kẻ đến trước tôi đều là trộm cướp; nhưng chiên đã không nghe họ. (9) Tôi là cửa. Ai qua tôi mà vào thì sẽ được cứu. Người ấy sẽ ra vào và gặp được đồng cỏ. (10) Kẻ trộm chỉ đến để ăn trộm, giết hại và phá huỷ. Phần tôi, tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào».

CHIA SẺ


Câu hỏi gợi ý:

1.   Trong Tin Mừng Gioan, đoạn về Mục tử Nhân lành được đặt ngay sau đoạn về việc Đức Giêsu chữa người mù bẩm sinh. Điều đó có ý nghĩa gì?

2.   Trong bài Tin Mừng về Mục tử Nhân lành, Đức Giêsu đối chọi hai hình ảnh: người mục tử đích thực với người làm thuê. Thời ấy, hai hạng người ấy là những ai? Thời nay, hai hạng người ấy có còn tồn tại không? Nếu còn, thì là ai?

3.   Làm sao phân biệt được mục tử đích thực và mục tử dỏm?      

Suy tư gợi ý:

1.   Bối cảnh của bài Tin Mừng

Trong Tin Mừng Gioan, đoạn nói về vị Mục Tử nhân lành (Ga 10,1-21) được tiếp nối ngay sau đoạn nói về việc Đức Giêsu chữa người mù từ thuở mới sinh (Ga 9,1-41), điều này không phải không có ý nghĩa. Bài về việc chữa người mù (Ga 9) mô tả chân dung của những mục tử dỏm, mang danh mục tử nhưng trong thực tế chỉ là kẻ chăn thuê; và bài kia (Ga 10) mô tả chân dung của người mục tử đích thực, sẵn sàng sống chết vì đàn chiên.

Trong bài Tin Mừng về người mù được chữa lành, những mục tử dỏm – hay những người Pharisêu – được mô tả là những người chỉ quan tâm đến những luật lệ của tôn giáo chứ không quan tâm đến con người. Họ chỉ muốn bắt dân chúng thi hành những luật lệ tôn giáo chứ không màng gì đến những nhu cầu thực tế cần được cứu giúp của dân chúng. Còn Đức Giêsu – người mục tử đích thực – thì hành động ngược lại. Đối với Ngài, «ngày sabát», cũng như lề luật và tôn giáo, «được tạo nên cho con người, chứ không phải con người cho ngày sabát», hay cho lề luật và tôn giáo (Mc 2,27); còn họ thì quan niệm ngược lại. Họ muốn thần thánh hóa lề luật và tôn giáo hơn cả con người, đang khi chính con người – vốn «được tạo dựng theo hình ảnh của Thiên Chúa» (St 1,27; 9,6) và «giống như Thiên Chúa» (St 1,26) – đáng lẽ phải được coi là linh thánh hơn rất nhiều. Tôn giáo và lề luật chỉ là những phương tiện phục vụ con người, đưa con người về với Thiên Chúa. Con người mới chính là mục đích của tôn giáo và lề luật. Ngược lại người Pharisêu, Đức Giêsu chủ trương: «Ta muốn lòng nhân», tức tình thương giữa con người với nhau, «chứ đâu cần lễ tế» (Mt 12,7). Ngài coi chuyện làm hòa với anh em mình, tức cách cư xử yêu thương giữa con người với nhau, còn quan trọng hơn việc dâng của lễ trên bàn thờ (x. Mt 5,23-24).

Người Pharisêu coi chuyện «nộp thuế thập phân về bạc hà, thì là, rau húng» cho đền thờ là điều rất quan trọng, nhưng lại chủ trương «bỏ những điều quan trọng nhất trong Lề Luật là công lý, tình thương và lòng thành thật» (Mt 23,23). Họ coi vàng trong đền thờ còn trọng hơn cả chính đền thờ (x.23,16-17), coi lễ vật trên bàn thờ còn trọng hơn cả bàn thờ (x.23,18-19). Sở dĩ họ phải quan trọng hóa lề luật, lễ tế, các nghi thức bề ngoài và những chuyện phụ thuộc (x. Mt 23,16-22) đồng thời dạy mọi người quan niệm như vậy… vì có làm thế, vai trò của họ mới được coi trọng, được đề cao, và mọi người mới chịu dâng cúng vào đền thờ cho nhiều, nhờ đó họ mới có những lợi lộc cụ thể. Nếu quan trọng hóa theo chiều ngược lại như chủ trương của Đức Giêsu, là quan trọng hóa con người, thái độ tâm linh bên trong, nhấn mạnh đến «công lý, tình thương và lòng thành thật» như những điều cốt yếu nhất của lề luật, thì rõ ràng họ đâu còn lợi lộc gì.

Họ dạy dân chúng quan niệm sai lầm như thế là một thủ thuật để có lợi nhuận. Vì thế, Đức Giêsu gọi họ là «những kẻ dẫn đường mù quáng» (Mt 23,16), là «những người mù dắt người mù» (Mt 15,14). Tuy nhiên, điều khiến cho họ bị kết án không phải là chuyện họ mù, nhưng là chuyện họ không bao giờ nhận mình là mù, là sai, mà cứ ngoan cố cho mình là đúng, là sáng, lại còn buộc mọi người phải tung hô mình là đúng, là sáng nữa: «Nếu các ông đui mù, thì các ông đã chẳng có tội. Nhưng giờ đây các ông nói rằng: “Chúng tôi thấy”, nên tội các ông vẫn còn!» (Ga 9,41).

2.   Người mục tử đích thực khác với người mục tử dỏm

Qua bài Tin Mừng, ta thấy điều cốt yếu khiến người mục tử đích thực khác với người mục tử dỏm là điểm này: Người mục tử đích thực thì thật sự yêu thương đàn chiên, luôn luôn nghĩ đến sự sống, lợi ích hay hạnh phúc của đàn chiên, thậm chí quên cả lợi ích hay sự sống của mình, nên sẵn sàng sống chết vì đàn chiên: «Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đàn chiên» (Ga 10,11). Mối bận tâm lớn nhất của người mục tử đích thực là làm sao để «chiên được sống và sống dồi dào» (10,10), dồi dào về tâm linh, và nếu có thể được thì cả thể chất hay vật chất nữa: Đức Giêsu cũng lo chữa bệnh, trừ quỷ và lo cả miếng ăn cho dân chúng khi thấy cần. Vì đối với người mục tử đích thực, đàn chiên không phải là những con vật mà là con người, là «hình ảnh của Thiên Chúa», Đấng mà họ tôn thờ và hết lòng yêu mến. Sự thánh thiện của người mục tử đích thực hệ tại tình yêu thương mà họ dành cho đàn chiên.

Còn người mục tử dỏm thì chỉ nghĩ đến lợi ích và sự sống của mình, «không thiết gì đến chiên» (10,13), «nên khi thấy sói đến, anh bỏ chiên mà chạy», chấp nhận để «sói vồ lấy chiên và làm cho chiên tán loạn» (10,12). Đối với những mục tử dỏm này, đàn chiên có vẻ chỉ là những con vật có bổn phận cung cấp sữa và thịt để họ ăn uống thỏa thuê, cung cấp những phương tiện để họ sống xa hoa, giàu có. Ngôn sứ Êdêkiel đã mô tả hạng mục tử này như sau: «Khốn cho các mục tử Ítraen, những kẻ chỉ biết lo cho mình! Sữa chiên thì các ngươi uống, len thì các ngươi mặc, chiên béo tốt thì các ngươi giết, nhưng đàn chiên thì lại không lo chăn dắt. Chiên đau yếu, các ngươi không làm cho mạnh; chiên bệnh tật, các ngươi không chữa cho lành; chiên bị thương, các ngươi không băng bó; chiên đi lạc, các ngươi không đưa về; chiên bị mất, các ngươi không chịu đi tìm. Các ngươi thống trị chúng một cách tàn bạo và hà khắc» (Ed 34,2-4).

3.   Hai hạng mục tử trong các thời đại

Bất kỳ thời đại nào, bất kỳ xã hội hay tôn giáo nào cũng luôn luôn có hai loại mục tử nói trên. Các mục tử đích thực, biết yêu thương và hy sinh cho đàn chiên thì thời nào cũng có. Họ làm cho bộ mặt của xã hội và của các tôn giáo trở nên hấp dẫn, lôi cuốn, đáng kính đáng yêu hơn. Họ là hiện thân và là phản ảnh trung thực của Đức Giêsu, vị Mục tử Nhân lành, trong các thời đại, là con người nối dài của Ngài để cứu độ thế giới suốt dòng lịch sử. Nơi họ quy tụ rất nhiều nhân đức, tinh thần hy sinh. Họ là tinh hoa của nhân cách con người, là kết tinh của tình yêu nhân loại. Một trong những đặc tính căn bản của họ là lúc nào cũng làm việc, và không bao giờ hết việc để làm, nhất là trong một thế giới đầy dẫy đau khổ như hiện nay. Tình yêu đồng loại thúc đẩy họ làm việc liên tục, vô vị lợi. Tất cả những ai đến với họ đều được tiếp đón ân cần và như nhau, không phân biệt giàu nghèo, sang hèn. Giả như có sự phân biệt nào đó thì bao giờ sự ưu đãi cũng nghiêng về phía người nghèo, người đau khổ.

Nhưng song song với những mục tử đích thực ấy, luôn luôn có những mục tử dỏm, cũng mang danh mục tử, cũng được phong chức mục tử, nhưng không có tâm hồn mục tử chút nào. Đối với họ, mục tử chỉ là một nghề nghiệp để kiếm sống, một nghề tương đối được ưu đãi trong xã hội và trong tôn giáo, vừa được mọi người nể nang kính trọng, vừa dễ kiếm tiền một cách khá nhàn nhã. Do chức năng phải giảng dạy, họ cũng rao giảng giáo lý, điều hay lẽ phải, cũng khuyên bảo mọi người thực hiện những điều tốt lành đạo đức, nhiều khi rất hùng hồn hấp dẫn, nhưng chính bản thân họ thì… không thực hiện. Với những lời họ khuyên bảo, ta nên áp dụng lời của Đức Giêsu: «Tất cả những gì họ nói, anh em hãy làm, hãy giữ, còn những việc họ làm, thì đừng làm theo, vì họ nói mà không làm» (Mt 23,3). Một cách nào đấy, họ vô tình phá hoại gương mặt tôn giáo của họ trong tâm trí mọi người, làm các tâm hồn thất vọng về tôn giáo ấy vì lối sống ích kỷ của họ.

Rất dễ nhận ra loại mục tử này qua những đặc tính sau đây:

– đối xử phân biệt rõ ràng giữa giàu nghèo: ưu đãi và kính nể người giàu, bạc đãi và khinh thường người nghèo.

– sống xa hoa, giàu sang bất chấp chung quanh và kế cận mình có biết bao người đang túng thiếu, nghèo khổ rất cần được họ giúp đỡ.

– bách hại những ai dám nói sự thật về con người mình.

– ai nhờ việc gì cũng phải có tiền mới hăng hái làm.

Một số người công giáo nhận xét: hiện nay, càng ngày càng có nhiều người tin Chúa nhưng không còn tin vào Giáo Hội, và có nhiều người đã từ bỏ Giáo Hội để theo những giáo phái khác có tình người hơn. Nhận xét đó có thể đúng. Và nếu đúng thì mọi người công giáo – nhất là các vị mục tử trong Giáo Hội – đều nên xét lại chính mình. Rất có thể người công giáo đã không sống đúng những điều căn bản nhất của Tin Mừng là sống công bằng và yêu thương, mà chỉ lo chu toàn những nghi thức tôn giáo bên ngoài. Và cũng rất có thể tỷ lệ giữa các mục tử đích thực và các mục tử dỏm không còn được như xưa: số các mục tử dỏm đã tăng lên rất nhiều. Thiết tưởng vì tương lai và sự phát triển của Giáo Hội, mọi người công giáo – đặc biệt các vị mục tử – đều có trách nhiệm phải chấn chỉnh lại cách sống của mình, và phải điều chỉnh lại tỷ lệ ấy.

CẦU NGUYỆN

Lạy Cha, nếu nói Giáo Hội thiếu mục tử thì không đúng lắm, vì nếu thiếu mục tử thì chắc hẳn mọi mục tử sẽ làm việc suốt ngày không xuể. Nhưng trước mắt mọi người thì rõ ràng có khá nhiều mục tử xem ra rất nhàn nhã, nếu có bận thì bận việc gì khác chứ không phải là việc của mục tử. Có lẽ đúng hơn là Giáo Hội thiếu các mục tử đích thực, những mục tử thật sự luôn quan tâm để đàn chiên «được sống và sống dồi dào». Xin Cha ban cho Giáo Hội, không phải chỉ là những mục tử, mà là những mục tử đích thực.                                                                

 

Joan Nguyễn Chính Kết


 


Về Trang Suy Niệm Chủ Nhật Năm A | Về Trang Nhà