LỄ HIỂN LINH (2005)
(Mát-thêu 2: 1-12)
Giáo
Hội suy gẫm việc Thiên Chúa tỏ mình ra cho nhân loại qua Đức Giê-su trong ba
hoàn cảnh đặc biệt: lễ Hiển Linh (Ba
Vua), lễ Chúa Giê-su chịu phép rửa và lễ Chúa Giê-su hiển dung (Biến hình) trên
núi Ta-bô-rê. Đây cũng là ba thời điểm
quan trọng trong cuộc đời Chúa Cứu Thế:
Người đến trần gian, Người bắt đầu sứ vụ rao giảng Tin Mừng và Người đi
lên Giê-ru-sa-lem để lãnh nhận cuộc Thương khó và chịu chết chuộc tội cho nhân
loại. Tuy là những thời điểm hiển linh
khác nhau, nhưng nội dung của việc Thiên Chúa tỏ mình ra đều xoay quanh một
điểm chính là tình yêu vô điều kiện Thiên Chúa dành cho nhân loại. Vậy qua Hài Nhi Giê-su, Thiên Chúa ở cùng
chúng ta (Em-ma-nu-en), Thiên Chúa muốn nói với ta điều gì và mong đợi ta làm
gì để đáp lại tình yêu của Người?
a) Thiên Chúa tỏ ra tình yêu của Người cho nhân loại
Hiển
Linh trong Cựu Ước diễn ra trong cảnh hùng vĩ của miền núi Xi-nai (Xh
19:16-25). “Ngay từ sáng, có sấm chớp,
mây mù dày đặc trên núi... Toàn dân trong trại đều run sợ... Đức Chúa ngự xuống trên núi Xi-nai.” Cuộc thần hiện được mô tả trong sách Xuất
Hành cho ta hình ảnh của một Thiên Chúa đầy uy nghi nghiêm túc, tựa như các
thần của dân ngoại. Chỉ trừ ông Mô-sê,
mọi người Ít-ra-en đều sợ hãi và không được phép đến gần Đức Chúa kẻo phải ngã
ra mà chết. Trong khung cảnh ấy, ta khó
có thể tìm được nét yêu thương của một Thiên Chúa là Cha nhân từ.
Nhưng
giờ đây trong khung cảnh nghèo nàn của hang đá Bê-lem, Thiên Chúa đã cất bỏ đi
tất cả vẻ uy nghi cao cả của Người để hiện thân là một trẻ sơ sinh yếu đuối và
tầm thường hơn cả những trẻ sơ sinh khác.
Thánh Phao-lô đã gọi hành vi này của Thiên Chúa là “hóa không”
(annihilation, self-emptying) hoặc “hoàn toàn trút bỏ vinh quang” (Pl
2:6). Một cuộc “tự hủy” như thế ắt phải
có lý do chính đáng. Thánh Gio-an nêu
lên lý do ấy và lấy đó làm chủ đề cho tất cả những gì ngài viết trong sách Tin
Mừng cũng như trong các thư của ngài:
“Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của
Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3:16).
So
sánh giữa hai cách hiển linh ấy, ta thấy rõ hiển linh trong Cựu Ước nhằm giới
thiệu một Đức Chúa uy quyền và đòi buộc dân tuyển chọn của Người phải hoàn toàn
tôn thờ duy một mình Người mà thôi. Còn
nội dung của hiển linh trong Tân Ước là để tỏ ra tình yêu của Thiên Chúa và bảo
đảm của Thiên Chúa là hễ ai tin nhận tình yêu ấy thì sẽ được sống đời đời. Thật thích đáng khi Phụng vụ Lời Chúa từ sau
lễ Giáng Sinh cho đến lễ Chúa Giê-su chịu phép rửa đã sử dụng thư thứ nhất của
thánh Gio-an Tông đồ để mời gọi ta tiếp tục chiêm niệm tình yêu Thiên Chúa làm
người và cư ngụ giữa chúng ta, một cách hiển linh quá gần gũi đến nỗi ta không
bao giờ tưởng tượng nổi. Thiên Chúa không
đến trong sấm chớp mây mù khiến cho ta sợ hãi mà chết nữa, nhưng Người đến
trong con người tầm thường trong cảnh đơn sơ nghèo nàn để ta dễ dàng tiếp nhận
Người và ta được sống muôn đời.
b) “Họ vào nhà, thấy Hài Nhi với thân mẫu là bà Ma-ri-a, liền sấp
mình bái lạy Người, rồi mở bảo tráp, lấy vàng, nhũ hương và mộc dược mà dâng
tiến”
Đi
cả một chuyến đi ngàn dặm, lặn lội và đối phó với bao hiểm nguy để cuối cùng
làm một cử chỉ hết sức đơn sơ là sấp mình bái lạy và dâng tiến tất cả những gì
mình có, mấy nhà chiêm tinh đã cho ta một mẫu mực để thực hiện cuộc hành trình
đức tin của ta. Đường xa khiến ta ngại
ngùng và nguy hiểm làm ta sợ hãi. Cũng
thế, cuộc hành trình đức tin của ta không phải chỉ trong một ngày một tháng,
nhưng là từ khi chào đời cho tới lúc nhắm mắt.
Trong hành trình ấy, ta có những thăng trầm và nhất là phải luôn luôn
đối phó với cám dỗ, yếu đuối con người và những quyến rũ của thế gian. Các nhà chiêm tinh thấy được ánh sao tức là
họ đã nhìn nhận vương quyền của Chúa Giê-su.
Ý thức vương quyền của Chúa Giê-su đã trở nên động lực thúc đẩy họ đi
tìm gặp Người, soi sáng cho họ biết luôn gắn bó với thao thức được gặp Chúa và
nâng đỡ họ chấp nhận mọi gian khó trong cuộc tìm kiếm này.
Đức
tin đưa họ đến gặp Chúa Giê-su, nhưng đức tin còn đưa họ đi xa hơn nữa, đó là
sấp mình bái lạy Người và mở bảo tráp dâng tiến Người tất cả những gì họ
có. Sấp mình bái lạy là cử chỉ dành
riêng cho Thiên Chúa. Chỉ có Thiên Chúa
là Đấng duy nhất ta phải bái lạy hay phụng thờ, như Chúa Giê-su đã đối đáp với
Xa-tan khi nó cám dỗ Người trong hoang địa.
Ở điểm hẹn trên núi trước khi Chúa Giê-su phục sinh lên trời và sai các
tông đồ đi giảng Tin Mừng, các tông đồ đã bái lạy Người để tuyên xưng Người là
Đức Chúa. Như vậy, qua câu truyện các
nhà chiêm tin sấp mình bái lạy Hài Nhi, rõ ràng thánh sử Mát-thêu đã nêu cao
việc tuyên xưng Đức Giê-su là Chúa như mục đích cuộc hành trình đức tin của ta
rồi vậy.
Tiếp
đến, cử chỉ mở bảo tráp và dâng tiến lễ vật cũng là điều ta cần phải làm trong
cuộc hành trình đức tin của ta. Ta
không cần biết số lượng lễ vật của các nhà chiêm tinh là bao nhiêu, nhưng ta
biết chắc đó là tất cả những gì quý giá nhất và ý nghĩa nhất đối với họ. Bảo tráp của họ là để giữ gìn lễ vật và sẵn
sàng được mở ra cho Chúa và cho mọi người.
Tất cả chỉ là phương tiện chứ không phải mục đích. Phương tiện để giúp họ sống và biểu lộ niềm
tin vào Chúa Cứu Thế. Nhưng đó cũng là
gương mẫu cho ta biết mở lòng đón nhận Chúa.
Ta không thể khóa bảo tráp cho kỹ để khư khư giữ lấy những gì ta trân
quý. Nhưng ta phải sử dụng tất cả những
gì được chứa trong đó để tuyên xưng Đức Ki-tô và sứ mệnh của Người, Đấng là
Vua, là Thiên Chúa và là người sống giữa nhân loại.
c) Suy nghĩ và cầu nguyện
Thiên
Chúa hiện diện giữa nhân loại qua Hài Nhi Giê-su. Người đã chọn một cách thức tầm thường và dễ dàng để ta nhận ra
sự hiện diện đầy yêu thương của Người.
Đối với tôi, đâu là dấu chỉ để tôi nhận ra sự hiện diện yêu thương của
Chúa trong cuộc đời tôi? Nếu Hài Nhi
Giê-su là “Em-ma-nu-en” thì Thiên Chúa có thực sự ở cùng tôi không? Nói khác đi, tôi có tiếp nhận Đấng
Em-ma-nu-en không?
Ôn
lại một vài thăng trầm đáng kể trong hành trình đức tin của tôi, tôi nhận ra
được những ý nghĩa nào của những thăng trầm ấy?
Tôi
đang trữ gì trong bảo tráp của tôi?
Những gì là trở ngại để tôi không thể hiến thân phụng sự Chúa và phục vụ
anh chị em?
Cầu nguyện
“Lạy
Chúa,
xin
nhận lấy trọn cả tự do, trí nhớ, trí hiểu,
và
trọn cả ý muốn của con,
cùng
hết thảy những gì con có,
và
những gì thuộc về con.
Mọi
sự ấy, Chúa đã ban cho con,
lạy
Chúa, nay con xin dâng lại cho Chúa.
Tất
cả là của Chúa,
xin
Chúa sử dụng hoàn toàn theo ý Chúa.
Chỉ
xin ban cho con lòng mến Chúa và ân sủng.
Được
như thế, con hoàn toàn mãn nguyện.
A-men.”
-
Kinh dâng hiến của thánh I-nhã
Lm. Đaminh Trần Đình Nhi