LỄ CHÚA GIÊ-SU LÊN TRỜI
(Mát-thêu 28: 16-20)
Kết
thúc một biến cố vĩ đại và mở đầu cho một biến cố vĩ đại kế tiếp hẳn phải là
một thời điểm vô cùng quan trọng. Để
nói lên mức quan trọng của cuộc chuyển tiếp từ việc Chúa Giê-su hiện diện bởi
thân xác Người giữa nhân loại sang giai đoạn hiện diện bởi Thần Khí trong Giáo
Hội và thế giới, thánh sử Mát-thêu đã mô tả biến cố Chúa lên trời với tất cả vẻ
tôn nghiêm, uy nghi và với những lời lẽ trang trọng Người truyền dạy các môn
đệ. Nếu lệnh truyền “hãy yêu thương
nhau” đã được ban trong một khung cảnh ấm cúng nhỏ bé giữa thầy trò, thì lệnh
truyền “hãy ra đi giảng dạy cho muôn dân” lại được công bố cách công khai trong
một nghi lễ đã được chuẩn bị từ trước.
Chính khung cảnh trang trọng của biến cố Chúa lên trời cũng đủ để giúp
ta nhận thấy được ý nghĩa đích thực của nó, đồng thời cũng đòi ta phải xét lại
xem ta đã đáp lại lệnh truyền của Chúa như thế nào.
a) “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất.”
Sự
sống lại của Chúa Giê-su và việc ngự bên hữu Chúa Cha đã nói lên giới hạn quyền
bính của Người. Chẳng ai có thể nói
rằng mình có toàn quyền trên trời dưới đất.
Chỉ có Thiên Chúa mới có quyền bính ấy.
Giờ đây Thiên Chúa trao quyền bính ấy cho Con Một Người. Thánh Phao-lô đã nói về việc trao quyền bính
ấy và giải thích tại sao Đức Ki-tô được trao toàn quyền như vậy. Đó là “Đức Giê-su Ki-tô... đã trút bỏ vinh
quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, vâng lời cho đến chết... Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn
Người. Và để tôn vinh Thiên Chúa Cha,
mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng:
“Đức Giê-su Ki-tô là Chúa.” (Pl 2:7-10).
Theo
thói thế gian thường tình, hễ có quyền bính là hay sử dụng nó để ra oai làm
phách. Còn đối với Chúa Ki-tô, quyền
bính là để phục vụ, phục vụ Thiên Chúa và nhân loại, phục vụ cho Vương quốc của
Thiên Chúa. Khởi đầu sứ vụ, Thần Khí
Chúa đã ngự xuống trên Chúa Giê-su, “xức dầu tấn phong Người để Người loan báo
Tin Mừng” (x. Lc 4:18-19). Sau khi hoàn
tất sứ vụ cứu thế và lên trời ngự bên hữu Chúa Cha, Chúa Giê-su “được trao toàn
quyền trên trời dưới đất” cũng vẫn là để tiếp tục công cuộc cứu độ cho đến lúc
mọi sự được viên mãn trong Người. Quyền
bính của Chúa Giê-su mang chiều kích vũ trụ (cosmic). Từ nay, Đức Giê-su là Chúa, một danh hiệu chỉ dành cho Thiên Chúa,
và “như vậy, khi vừa nghe danh thánh Giê-su, cả trên trời dưới đất và trong nơi
âm phủ, muôn vật phải bái quỳ.”
Tuy
nhiên, quyền bính ấy không chỉ để ta bái quỳ, nhưng hơn thế nữa để ta tham
dự. Chúa Giê-su mời gọi ta nhìn nhận
quyền bính ấy để nhờ Người, ta có được khả năng đến với Đấng vô biên là Thiên
Chúa, điều mà tự sức riêng con người ta không thể làm được. Nhiều lần Người đã lập đi lập lại lời mời
gọi này: Ai tin vào Người là Đấng
Ki-tô, Con Thiên Chúa, thì sẽ được sống đời đời. Chính vì thế, để giúp nhân loại tiếp nhận quyền bính ấy, Chúa
Giê-su đã truyền lệnh cho các môn đệ:
“Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ...”
b) “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ”
Trong
khung cảnh long trọng Chúa Giê-su hiện ra với các môn đệ trên núi, Người đã
truyền cho các Tông đồ ra đi tiếp nối sứ vụ của Người. Sứ vụ ấy Người đã khởi sự sau khi chịu ma
quỷ cám dỗ. Trên núi cám dỗ, Chúa
Giê-su đã bị Xa-tan xúi giục hãy thi hành sứ vụ theo kế hoạch riêng chứ đừng
theo kế hoạch của Thiên Chúa. Nhưng
Người đã chiến thắng cám dỗ và Người đã hoàn thành sứ vụ tốt đẹp. Theo cùng một phương thức, môn đệ Người cũng
phải ra đi và thi hành sứ vụ theo kế hoạch của Thiên Chúa. Người chiến thắng cám dỗ để bảo đảm cho ta
tiếp nối sứ mệnh mà không phải sợ là mình sẽ lạc đường. “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em.”
Chỉ
thị hãy ra đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ đã được Giáo Hội sơ khai thi
hành từng chữ từng nét. Rửa tội và dạy
bảo là hai công việc chính để “làm cho muôn dân trở thành môn đệ.” Sách Công vụ Tông đồ đã kể lại những công
việc này với những trang sử đầy khích lệ và nêu cao hoạt động của Chúa Thánh
Thần trong Giáo Hội sơ khai. Việc rửa
tội là kết quả của những bài giảng tuy đơn sơ, nhưng rõ ràng và nhất là đầy xác
tín của những vị rao giảng muốn chia sẻ với dân chúng những gì họ tin vào Chúa
Giê-su Ki-tô Phục sinh. Giáo Hội từ một
nhóm nhỏ tại Giê-ru-sa-lem đã bành trướng mạnh mẽ khắp nơi trên thế giới, đúng
như Tin Mừng Mác-cô đã ghi lại lệnh truyền của Chúa: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi
thọ tạo” (Mc 16:15).
Thánh
Thần đã giúp môn đệ Chúa nhớ lại tất cả những điều Người đã dạy dỗ họ trước
kia. Giờ đây họ đã đem lời dạy dỗ ấy
đến cho mọi người. Chính những lời dạy
dỗ mà họ nhớ lại đã được ghi chép và trao lại cho ta qua những trang sách Tin
Mừng và các thánh thư, một kho tàng quý giá tuyệt đỉnh giúp ta sống sao cho
đúng nghĩa làm môn đệ Chúa.
c) “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế”
Kẻ
ra đi, nhất là ra đi một chuyến lâu dài, thường để lại một kỷ vật cho người ở
lại. Chúa Giê-su không có kỷ vật nào
quý giá hơn chính sự hiện diện của Người.
Chắc hẳn khi chỉ thị cho môn đệ phải lên đường truyền giáo, rao giảng
Tin Mừng, Chúa Giê-su đã nhìn thấu nỗi lo lắng của họ. Phải làm gì? Làm thế nào? Mặc dù Người đã cho họ những huấn thị rõ ràng trong Mát-thêu
chương 10 về sứ mệnh truyền giáo, nhưng họ vẫn không khỏi lo lắng vì sẽ phải
đối phó với những khó khăn bách hại. Họ
cần có sự hỗ trợ của Thầy. Do đó Chúa
đã bảo đảm với họ là Người sẽ luôn ở bên cạnh họ để nâng đỡ ủi an. Người đã ở với họ khi Người thi hành sứ vụ
và đã nhiều lần bênh vực họ trước những chỉ trích của kẻ thù. Sau khi sống lại, Người vẫn ở với họ, cùng
bước trên đường Em-mau, cùng chuyện vãn với họ trong phòng cửa đóng then cài vì
họ sợ người Do-thái, cùng ăn sáng với họ bên bờ hồ Ga-li-lê, nhất là trong lúc
này đang khi Người ở với họ trên núi và trao trọng trách cho họ. Trong bữa Tiệc Ly, Người đã thiết lập Bí
tích Thánh Thể để “ở lại trong họ và họ ở lại trong Người”. Bây giờ, trước khi về với Chúa Cha, Người
hứa ở lại với họ qua Chúa Thánh Thần.
Từ nay, Người sẽ tiếp tục hoạt động bên họ, trong họ và trong Giáo Hội,
nhưng dưới một hình thức mới là qua Chúa Thánh Thần. Như thế, Người đâu có bỏ ta mồ côi, trái lại, còn gần gũi ta hơn
bất cứ ai khác. Người đi lên với Chúa
Cha, còn ta làm chứng cho Người là Chúa khi ta được Người sai đi đến với anh
chị em để giúp cho họ biết và yêu mến Người.
Trong phong cách long trọng của ngày lên trời, Chúa Giê-su muốn ta hãy
nghiêm túc thi hành lệnh truyền của Người, bằng tất cả khả năng ta có, hoàn
cảnh ta gặp, để kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa Cha đã được khởi sự tốt đẹp nhờ
Chúa Ki-tô cũng sẽ được hoàn tất với sự cộng tác của ta nữa.
d) Suy nghĩ và cầu nguyện
Thiên
Chúa muốn mọi người tuyên xưng Đức Giê-su là Chúa. Vậy tôi đã để cho Người là “Chúa của tôi” như thế nào, giống như
cách tuyên xưng của thánh Tô-ma hoặc của thánh Phao-lô?
Để
được sai đi giúp người khác làm môn đệ Chúa, chính tôi phải biết làm môn đệ
Chúa là gì, như thế nào... Vậy tôi đã
sẵn sàng để được Chúa sai đi chưa? Tôi
phải học làm môn đệ Chúa thế nào?
Tôi
cảm nghiệm thế nào về lời hứa của Chúa Giê-su sẽ ở lại với tôi cho đến
cùng? Nhớ lại một vài trường hợp tôi
thấy rõ ràng nhất Người ở với tôi?
Cầu nguyện:
“Lạy
Cha,
Cha
muốn cho mọi người được cứu độ
và
nhận biết chân lý,
chân
lý mà Cha đã bày tỏ nơi Đức Giê-su, Con Cha.
Xin
Cha nhìn đến hàng tỉ người
chưa
nhận biết Đức Giê-su,
họ
cũng là những người đã được cứu chuộc.
Xin
Cha thôi thúc nơi chúng con
khát
vọng truyền giáo,
khát
vọng muốn chia sẻ niềm tin và hạnh phúc,
niềm
vui và bình an của mình cho tha nhân,
và
khát vọng muốn giới thiệu Đức Giê-su cho thế giới.
Chúng
con thấy mình nhỏ bé và bất lực
trước
sứ mạng đi đến tận cùng trái đất
để
loan báo Tin Mừng.
Chúng
con chỉ xin đến
với
những người bạn gần bên,
giúp
họ quen biết Đức Giê-su và tin vào Ngài,
qua
đời sống yêu thương cụ thể của chúng con.
Chúng
con cũng cầu nguyện
cho
tất cả những ai đang xả thân lo việc truyền giáo.
Xin
Cha cho những cố gắng của chúng con
sinh
nhiều hoa trái. A-men.”
(Trích
RABBOUNI, lời nguyện 69)
Lm. Đaminh Trần Đình Nhi