Chúa Nhật thứ 5 Thường Niên
(6-2-2005)
Giáo Hội và
Kitô hữu phải là muối ướp,
là đèn sáng
cho thế giới
ĐỌC LỜI
CHÚA
· Is 58,7-10: (9) Nếu ngươi loại khỏi nơi ngươi ở gông cùm, cử chỉ đe
doạ và lời nói hại người, (10)
nếu ngươi nhường miếng ăn cho kẻ đói, làm thoả lòng người bị hạ nhục, thì ánh
sáng ngươi sẽ chiếu toả trong bóng tối.
· 1Cr 2,1-5: (1) Khi đến với anh em, tôi đã không dùng lời lẽ hùng
hồn hoặc triết lý cao siêu mà loan báo mầu nhiệm của Thiên Chúa. (4) Chẳng dùng lời lẽ khôn khéo hấp dẫn, nhưng chỉ dựa
vào bằng chứng xác thực của Thần Khí và quyền năng Thiên Chúa.
· TIN MỪNG: Mt 5,13-16
Muối cho đời và ánh sáng cho trần gian
(13) «Chính anh em
là muối cho đời. Nhưng muối mà nhạt đi, thì lấy gì muối nó cho mặn lại? Nó đã
thành vô dụng, thì chỉ còn việc quăng ra ngoài cho người ta chà đạp thôi. (14)
«Chính anh em là ánh sáng cho trần
gian. Một thành xây trên núi không tài nào che giấu được. (15) Cũng chẳng có ai thắp đèn rồi lại để dưới
cái thùng, nhưng đặt trên đế, và đèn soi chiếu cho mọi người trong nhà. (16) Cũng vậy, ánh sáng của anh em phải chiếu
giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn
vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời».
CHIA SẺ
Câu hỏi gợi ý:
1. Thiên Chúa mong đợi gì nơi Giáo Hội, nơi mỗi
người chúng ta? Giáo Hội và mỗi người chúng ta đã đáp ứng sự mong đợi của Ngài
thế nào?
2. Giáo Hội có phải là gương mẫu cho thế giới noi
theo không? Mỗi người chúng ta có phải là gương sáng trong môi trường mình sống
không?
Suy tư gợi ý:
1. Vật hư không sử dụng được thì chỉ có nước vứt
bỏ
Một vật bị hư, không sử dụng
được nữa – chẳng hạn cái quạt máy không quay nữa, cây viết không ra mực nữa –
thì chỉ có nước đem sửa. Nếu sửa không được thì đành phải vứt vào thùng rác.
Khi còn sử dụng vật nào thì ta lo bảo vệ, chăm chút cho nó, khi đã bỏ vào thùng
rác rồi thì ta mặc kệ nó, ai đốt, ai phá hủy, ai làm gì nó ta cũng chẳng quan
tâm. Đó là chuyện tự nhiên và hợp lý. Còn Thiên Chúa, Ngài hành xử ra sao đối
với những thứ vô dụng, bị mất bản chất, không còn sử dụng được nữa?
– Trong «bài ca vườn nho», Isaia (5,1-7) kể
chuyện: Bạn ông «có một vườn nho trên sườn đồi màu mỡ». Anh bỏ ra rất
nhiều công lao và tiền bạc đầu tư cho nó, «những mong nó sinh trái tốt».
Anh nói: «Có gì làm hơn được cho vườn nho của tôi, mà tôi đã chẳng làm?»
Nhưng khốn thay «nó lại sinh toàn nho dại». Tìm hết cách mà vẫn không
kết quả gì khá hơn. Vậy thì anh phải làm gì với vườn nho ấy? Anh đã không thèm
đoái hoài gì tới nó nữa, mặc cho «bờ tường bị đập đổ», «vườn bị giày
xéo», «thửa vườn thành mảnh đất hoang vu», «gai góc mọc um tùm».
– Isaia kết luận: «Vườn nho Chúa chăm sóc ấy chính là nhà Ítraen; cây nho
Chúa quý chuộng ấy chính là người Do Thái. Người những mong họ sống công bình,
mà chỉ thấy toàn là đổ máu; đợi chờ họ làm điều chính trực, mà chỉ nghe vẳng
tiếng khóc than» (Is 5,7).
– Tin Mừng Mátthêu 21,18-19 thuật lại chuyện Đức
Giêsu rủa cây vả không ra trái khiến nó bị khô héo ngay. Đang mùa vả mà vả chỉ
có cành lá xum xuê chứ không có trái, đánh lừa khách lỡ đường bị đói, thì cây
vả ấy đáng bị đốn bỏ. Gioan Tẩy Giả cũng nói: «Bất cứ cây nào không sinh quả
tốt đều bị chặt đi và quăng vào lửa» (Mt 2,10).
– Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu cũng chủ
trương: «Muối mà nhạt đi, thì (…) thành
vô dụng, chỉ còn việc quăng ra ngoài cho người ta chà đạp thôi» (Mt 5,13).
Cũng vậy, đèn hư, không sáng được, thì chỉ còn nước vứt vào sọt rác.
2. Thiên Chúa mong Giáo
Hội là muối ướp, là đèn soi trần gian
Trần gian đầy dẫy đau khổ vì con người quá tội lỗi.
Tội lỗi chính là xa rời Thiên Chúa, sống ngược với bản tính Thiên Chúa là tình
yêu, với bản chất của mình là «hình ảnh của Thiên Chúa». Sống ngược với
bản chất của mình nghĩa là sống thiếu tình thương, không tôn trọng sự công
bằng. Vì thế, con người thường xuyên phải sống trong bất công, áp bức, bóc lột,
ghen ghét, hận thù, từ trong môi trường nhỏ nhất là gia đình cho đến quốc gia,
xã hội, và lớn nhất là thế giới. Do đó con người phải chịu đựng biết bao đau
khổ: «Đời người là biển khổ», «nước
mắt của chúng sinh bao nhiêu thế hệ cộng lại còn nhiều hơn nước sông Hằng»
(Lời Đức Phật).
Để cứu trần gian khỏi đau khổ, một trong những mục
đích của Đức Giêsu khi đến trần gian là khai mạc Nước Thiên Chúa tại đây. Và
Nước Thiên Chúa – hay Nước Trời – là từ trong Tin Mừng để chỉ một xã hội toàn
hảo, trong đó tất cả mọi người đều được hạnh phúc, vì mọi người đều đối xử với
nhau bằng tình thương, một cách cụ thể và thực tế. Nhờ tình thương, xã hội
không còn tranh chấp, hận thù, mọi người đều sống an vui, từ trong tâm hồn ra
đến ngoài xã hội.
Đức Giêsu lập nên Giáo Hội những mong Giáo Hội dần
dần trở thành Nước Thiên Chúa ở trần gian, thành cánh tay hữu hình và nối dài
của Ngài để giáo hóa, thánh hóa, cứu chuộc, phục vụ cho bình an và hạnh phúc
của nhân loại. Ngài mong Giáo Hội là nhịp cầu nối con người với Thiên Chúa,
mong Giáo Hội thành một xã hội gương mẫu để mọi xã hội trên trần gian bắt
chước. Và để thực hiện cụ thể mong ước ấy, Thiên Chúa đã kêu gọi một số người
trong nhân loại trở thành Kitô hữu, gia nhập Giáo Hội, để họ thành gương sáng
cho mọi người noi theo, để tích cực biến trần gian thành Nước Thiên Chúa.
3. Giáo Hội phải là một thể chế gương mẫu cho mọi xã hội
Giáo Hội thời sơ khai quả một xã hội lý tưởng, rất
phù hợp với mô hình Nước Thiên Chúa, trong đó các Kitô hữu đều yêu thương nhau,
chia sẻ với nhau một cách rất cụ thể. Trong khi các xã hội thời ấy đều theo thể
chế quân chủ và phong kiến, thì Giáo Hội đã là một xã hội rất dân chủ và rất
tiến bộ. Chẳng hạn, theo sách Công Vụ (Cv 1,15-25), để chọn vị tông đồ thay thế
Giuđa đã thắt cổ tự tử, thánh Phêrô, thủ lãnh Giáo Hội thời ấy không hề tự mình
quyết định việc này, mà yêu cầu 120 Kitô hữu có mặt hôm đó đề cử 2 người rồi bỏ
phiếu bầu một trong 2 người ấy. Và Matthia đã được chọn làm tông đồ thứ 12 thay
thế Giuđa. Cho đến thế kỷ thứ 4, năm 347, thánh Ambrôsiô ngay khi còn là lương
dân, đã được dân chúng bầu lên làm giám mục, về sau thành một vị thánh. Chỉ sau
khi được bầu làm giám mục, ngài mới chịu phép rửa tội, được truyền chức linh
mục và giám mục. Giáo Hội thời ấy cũng là một xã hội cộng sản lý tưởng nhất mà
các xã hội cộng sản ở thế kỷ 20 phải thua xa một trời một vực. Sách Công vụ cho
biết: : «Tất cả các tín hữu hợp nhất với nhau, và để mọi sự làm của chung.
Họ đem bán đất đai của cải, lấy tiền chia cho mỗi người tuỳ theo nhu cầu. Họ
được toàn dân thương mến» (Cv 2,44.47).
Phải nói rằng về mặt thể chế, Giáo Hội thời sơ khai
«tiến bộ» hơn hẳn các thể chế trần gian cùng thời rất nhiều, Giáo Hội
thời ấy thật đáng làm gương cho mọi thể chế xã hội. Nhưng tiếc thay, phải 17
thế kỷ sau nhân loại mới có những quốc gia chập chững noi theo thể chế dân chủ
của Giáo Hội Kitô giáo ban đầu. Thật vậy, mãi đến năm 1690 John Locke ở nước
Anh, và năm 1748 Baron de Montesquieu ở Pháp mới viết được những tác phẩm giới
thiệu cho nhân loại tinh thần dân chủ mà Giáo Hội thời sơ khai đã thực hiện
trước đó cả 16 thế kỷ. Và đến năm 1917, thế giới mới xuất hiện thể chế cộng sản
với lý tưởng rất cao vời nhưng trong thực tế chẳng thực hiện được. Thế mà lý
tưởng ấy đã được thực hiện trong Giáo Hội sơ khai một cách rất tuyệt vời, đã
thật sự đem lại hạnh phúc cho các thành viên Giáo Hội thời ấy.
Tiếc thay kể từ thế kỷ thứ 4 về sau, khi được tự do
truyền đạo, Giáo Hội lại rập khuôn theo thể chế quân chủ của đế quốc Rôma, và
vẫn tiếp tục cho đến nay. Trong khi đó, từ mấy thế kỷ nay, rất nhiều quốc gia
trên thế giới đã từ bỏ thể chế ấy để bắt chước thể chế của Giáo Hội thời sơ
khai, tuy rằng còn xa mới đạt được mức lý tưởng như Giáo Hội thuở ấy. Thiết
tưởng chúng ta cũng cần tự hỏi: thể chế của Giáo Hội hiện nay có phải là một
thể chế gương mẫu mà các nước trên thế giới muốn hoặc cần noi theo không?
4. Giáo Hội và mỗi Kitô hữu phải là muối, là ánh sáng
Thiên Chúa đã thất vọng vì
dân Do Thái – dân tộc được Ngài đặc biệt tuyển chọn để làm cầu nối giữa Ngài
với nhân loại – đã không đáp ứng lại những điều Ngài mong muốn nơi họ. Vì thế,
Thiên Chúa không còn chúc lành cho họ, khiến họ lâm vào nhiều tình huống khó
khăn suốt 20 thế kỷ qua: mất nước, lưu lạc khắp nơi, bị Hitler tìm cách tiêu
diệt thời thế chiến thứ hai, lập quốc trở lại năm 1947 thì sau đó là chiến
tranh liên miên.
Để thay thế dân tộc Do Thái, cách đây 20 thế kỷ,
Thiên Chúa đã lập một dân mới cho Ngài, đó là Giáo Hội, những mong Giáo Hội
hoàn thành được sứ mạng Ngài giao phó là trở nên muối ướp và đèn soi cho nhân
loại. Đến nay, sau 2000 năm thành lập, thử hỏi Giáo Hội có đáp ứng được sự mong
đợi của Thiên Chúa chưa? Thiết tưởng đó phải là câu hỏi mà mỗi Kitô hữu – với
tư cách là thành viên của Giáo Hội – đều phải tự đặt cho mình để ý thức trách
nhiệm của mình trước sự mong đợi của Thiên Chúa nơi Giáo Hội.
Muốn Giáo Hội trở thành một thể chế gương mẫu cho
thế giới noi theo, thì trước hết mọi thành viên của Giáo Hội phải trở nên gương
mẫu cho những người chung quanh, phải tích cực hoạt động để môi trường mình đang
sống tốt đẹp hơn, yêu thương nhau hơn. Cụ thể nhất là phải biến bản thân mình,
rồi đến gia đình mình, giáo xứ mình thành Nước Thiên Chúa đã. Cha mẹ phải là
gương sáng cho con cái, linh mục là gương sáng cho giáo dân, giám mục là gương
sáng cho linh mục, bề trên là gương sáng cho bề dưới. Đó chính là trở nên muối
cho đời, nên đèn sáng cho trần gian.
Muối của chúng ta sẽ lạt đi, đèn của chúng ta sẽ
tối lại,
– khi chúng ta sống ích kỷ, không có tình yêu, khi
chúng ta cũng đầy tham sân si, cũng ham danh lợi thú và cũng chẳng tốt lành gì
hơn những người ngoài Kitô giáo;
– khi chúng ta sẵn sàng nhắm mắt làm ngơ trước các
nhu cầu cấp bách và đau khổ của người khác (xem lại bài đọc 1: Is 58,7-10);
– khi chúng ta không dám
bênh vực và làm chứng cho sự thật, sự thiện, công lý, và sẵn sàng im lặng để
được an thân trước các bất công xã hội, để mặc những thế lực xấu tự do hoành
hành;
– khi chúng ta chỉ biết cầu nguyện mà không cảm
thấy phải hành động, chỉ biết thờ phượng Chúa mà không hề quan tâm đến đồng
loại, hoặc ngược lại, chỉ biết hành động mà không cầu nguyện, chỉ biết quan tâm
đến đồng loại mà không màng đến bổn phận đối với Thiên Chúa.
CẦU
NGUYỆN
Lạy Cha,
hiện nay nhân loại đang rất cần những gương sáng cụ thể và sống động để noi
theo hơn là những lý thuyết trừu tượng, cần những vị thánh hơn là những nhà
thuyết giảng hùng hồn. Nhưng dường như Kitô hữu chúng con lại có khuynh hướng
cung cấp cho thế giới theo chiều ngược lại. Xin giúp chúng con ý thức điều đó
để sám hối, để trở thành men, muối và đèn sáng cho mọi người chung quanh.
Joan Nguyễn
Chính Kết