CHÚA NHẬT 10 QUANH NĂM
(Mát-thêu 9: 9-13)
Chúa
Giê-su bênh vực những người yếu đuối hoặc bị xã hội khinh khi, đó là một đề tài
ta thường gặp thấy trong sách Tin Mừng.
Không phải Người chỉ lên tiếng phản đối những kẻ áp bức và xét đoán
người khác, mà nhiều khi còn đi xa hơn nữa qua những việc làm tỏ lòng ưu ái ân
cần đối với những nạn nhân của áp bức và xét đoán. Thánh Gio-an kể lại câu truyện Chúa Giê-su cứu người phụ nữ ngoại
tình khỏi bị kết án tử hình ném đá (Ga 8:1-11). Ba sách Tin Mừng Nhất lãm thì đều kể lại câu truyện Chúa gọi ông
Lê-vi là một người thu thuế làm môn đệ và Người lại còn đến nhà ông ăn uống với
những người bị coi là kẻ tội lỗi nữa.
Chúa Giê-su đã đặt việc chữa bệnh lên trên việc giữ luật ngày
sa-bát. Làm những việc ấy, Chúa Giê-su
phải đương đầu với những chống đối mãnh liệt từ phía nhóm Pha-ri-sêu và kinh
sư. Nhưng Người vẫn một lòng đứng về
phía những người tội lỗi và “những kẻ nghèo hèn” của Thiên Chúa, cho dù những
chống đối ấy sẽ dần dần đưa Người tới cái chết trên thập giá. Tại sao Chúa Giê-su đã giữ vững lập trường
ấy? Là vì Người muốn trung thành với sứ
mệnh “đến để kêu gọi người tội lỗi” và tỏ cho họ biết trái tim của Thiên Chúa.
a) Bắt đầu từ một câu truyện:
gọi ông Mát-thêu
Cả
ba sách Tin Mừng Mát-thêu, Mác-cô và Lu-ca đều ghi lại câu truyện lịch sử Chúa
gọi ông Mát-thêu, cũng có tên là Lê-vi, là người thu thuế làm môn đệ
Người. Điều này không những nói lên tầm
quan trọng của chính biến cố, mà còn cho ta thấy một vấn đề lớn, liên quan tới
việc trình bày bản chất sứ mệnh cứu thế của Chúa Giê-su.
Tin
Mừng Mát-thêu đã không ngần ngại nêu danh người được Chúa gọi là Mát-thêu trong
câu truyện, trong khi Mác-cô và Lu-ca vì tế nhị nên đã dùng tên cũ của vị tông
đồ là Lê-vi, cái tên ít ai để ý tới. Mà
thánh Mát-thêu nêu tên mình trong câu truyện là phải, vì Mát-thêu có lẽ là biệt
danh Chúa Giê-su đặt cho ngài sau khi bỏ việc thu thuế để theo Chúa. Cái tên ấy đánh dấu một cuộc đổi đời. Mát-thêu có nghĩa là “hồng ân Thiên
Chúa”. Thánh sử sử dụng tên ấy trong
câu truyện của ngài, vì ngài muốn độc giả đọc câu truyện cá nhân ngài để nhận
biết được sứ mệnh cao cả của Chúa Giê-su.
Câu truyện đời Mát-thêu là câu truyện ơn cứu độ. Trước hết nó nhắc ta về một con người cũ tên
là Lê-vi. Anh chàng Lê-vi này là nhân
vật có thực, làm nhân viên thu thuế cho đế quốc Rô-ma, một thành phần bị xếp
ngang hàng với “phường tội lỗi”. Trước
mắt người Do-thái, công việc của anh không được coi là tốt, vì nó nối giáo cho
giặc đế quốc và đầy những gian lận mập mờ.
Nhưng ai có thể xét đoán người khác, ngoài Thiên Chúa là Đấng “dò xét
thấu suốt tâm can”? Đâu phải người
Pha-ri-sêu nào cũng xấu cả. Chúa Giê-su
cũng có những người bạn là Pha-ri-sêu (Lc 7:36; 13:31). Biết đâu anh chàng Lê-vi này, tuy miễn cưỡng
làm công việc thu thuế, nhưng trong lòng lại luôn thao thức muốn vươn lên, bước
ra ngoài một cuộc sống thường cảm thấy bị tiền bạc cám dỗ và nỗi tủi nhục vì
khinh miệt của những người đồng bào!
Thao thức như vậy, cho nên khi gặp được Chúa Giê-su, Lê-vi giống như
người sắp chết đuối nắm được bàn tay cứu vớt.
Điều khiến ta ngạc nhiên là tại sao Chúa Giê-su “đi ngang qua trạm thu
thế” làm gì. Chẳng cần phải đợi Chúa
Giê-su đến, những người thu thuế sẽ đến với Người trước để đòi thuế (Mt
17:24-27)! Rõ ràng mục đích Chúa đi
ngang qua đó là “để kêu gọi người tội lỗi”.
Ta có thể nhận thấy nỗi thao thức của Lê-vi trầm trọng tới mức nào, vì
ngay sau khi nghe Chúa gọi “Anh hãy theo tôi!” là anh lập tức đứng dậy, bỏ lại
tất cả để đi theo Chúa.
Thao
thức của Mát-thêu là thao thức của một người tội lỗi muốn được lãnh nhận ơn cứu
độ. Nhưng đó không chỉ là thao thức của
cá nhân Lê-vi, mà cũng là thao thức của toàn thể nhân loại, vì ngoại trừ Mẹ
Ma-ri-a, có ai sinh ra mà không nằm trong móng vuốt kiềm tỏa của tội lỗi
đâu. Chúa Giê-su tuyên bố về mục đích
của việc Người đến trần gian là để kêu gọi người tội lỗi. Đó là tất cả ý nghĩa sứ mệnh cứu thế của
Người. Được ơn cứu độ quả thực là một
“hồng ân Thiên Chúa”, một Mát-thêu. Như
thế, ta có thể nói Lê-vi là hình ảnh của con người thao thức mong chờ ơn cứu độ
và Mát-thêu là hình ảnh của con người đã được lãnh nhận ơn cứu độ.
b) “Hãy về học cho biết ý nghĩa của câu này: Ta muốn lòng nhân từ chứ đâu cần lễ tế”
Đúng
là gậy ông đập lưng ông! Đám Pha-ri-sêu
lúc nào cũng vỗ ngực cho mình là giỏi Kinh Thánh và là con cái Thiên Chúa. Vậy mà giờ đây họ lại bị Chúa Giê-su thẳng
thắn dạy bảo họ: Hãy về mà học cho
biết... Những kẻ xưng mình là “thầy”
thiên hạ lúc này bị Thầy Giê-su dạy cho một bài học Kinh Thánh thực dụng. Nhóm Pha-ri-sêu bực tức vì Chúa Giê-su đến
với kẻ tội lỗi, tỏ lòng ưu ái đối với những người thu thuế khi Người tới nhà
ông Mát-thêu để ăn uống. Đúng là nhóm
ấy không có lòng nhân từ đối với những kẻ tội lỗi và thu thuế. Cho nên Chúa Giê-su đã nhắc nhở họ: Thiên Chúa muốn các ông phải tỏ lòng nhân từ
đối với những anh chị em yếu đuối tội lỗi, chứ Người đâu cần các ông phải làm
nô lệ cho Lề luật, xì xụp bái lạy và những lễ nghi rềnh rang.
Chính
Chúa Giê-su đã thực hiện ý muốn của Thiên Chúa. Tất cả con người, sứ vụ và giáo lý của Chúa Giê-su là để tỏ ra
lòng nhân từ của một Thiên Chúa đầy yêu thương nhân loại và muốn cứu vớt họ
khỏi bị chết đời đời. Chúa Giê-su đã
cực lực đả phá việc “thờ phượng Chúa bằng môi miệng nhưng lòng họ lại xa Chúa”. Người tuyên bố đã đến lúc phải thờ phượng Chúa
Cha “trong tinh thần và chân lý”, nghĩa là thờ phượng trong Chúa Ki-tô, theo
mẫu gương Ki-tô bằng cách đưa việc thờ phượng ấy qua đời sống. Thí dụ, nếu bạn muốn thờ phượng Thiên Chúa
là Đấng nhân từ thì bạn phải tỏ ra lòng nhân từ với tha nhân, có như vậy bạn
mới trở nên hoàn hảo như Cha trên trời là Đấng hoàn hảo.
Có
lẽ ý nghĩa của câu “Ta muốn lòng nhân từ chứ đâu cần lễ tế” đã được Chúa Giê-su
giải nghĩa bằng một dụ ngôn thật sống động:
người Sa-ma-ri tốt lành. Cũng
chỉ vì nghĩ rằng Thiên Chúa cần lễ tế chứ đâu cần lòng nhân từ, nên thầy tư tế
và thầy Lê-vi đã tránh qua phía bên kia người bị đánh nhừ tử để mà mau mau lên
Giê-ru-sa-lem làm bổn phận lễ tế! Trái
lại, người Sa-ma-ri tốt lành thì lấy lòng nhân từ làm động lực bắt mình phải
dừng lại và làm tất cả những gì có thể để cứu giúp người bị nạn.
c) Chúa Giê-su là vị lương y tinh thần
Với
những phép lạ chữa lành các bệnh tật, Chúa Giê-su quả là một vị lương y. Nhưng Chúa không dừng lại ở việc chữa lành
thể xác, mà Người còn đi tới việc chữa lành phần hồn. Nhiều lần sau khi chữa lành, Chúa Giê-su bảo người được khỏi
bệnh: Hãy đi và đừng phạm tội nữa.
Vị
lương y tinh thần đã chữa lành cho Mát-thêu.
Hôm nay tại nhà Mát-thêu, cũng như dân chúng bị bệnh tật đã đến với Chúa
Giê-su để xin Người chữa lành thế nào, thì “nhiều người thu thuế và người tội
lỗi kéo đến, cùng ăn với Người và các môn đệ”, để được chữa lành những tật
nguyền thiêng liêng như vậy. Đúng là
một cuộc ăn mừng, không phải chỉ vì một người tội lỗi trở về, mà còn vì nhiều
người tội lỗi khác nữa! Lòng nhân từ
của Thiên Chúa đã được biểu lộ và lôi cuốn họ tới. “Ở đâu tội lỗi đã lan tràn, ở đó ân sủng càng chứa chan gấp bội”
(Rm 5:20). Mát-thêu nghĩa là “hồng ân
Thiên Chúa”, và Chúa Giê-su là “đầy tràn Ân Sủng” (Ga 1:16).
d) Suy nghĩ và cầu nguyện
Trước
đây tôi hiểu thế nào về sứ mệnh cứu thế của Chúa Giê-su? Một cách lờ mờ, hoặc chỉ như một ý tưởng
trống rỗng “Chúa Giê-su chuộc tội cứu thế”?
Câu truyện Mát-thêu có phải là câu truyện của tôi không?
Tôi
đã có lối phán đoán người khác theo cách của những người Pha-ri-sêu trong những
trường hợp nào? Đối với những ai?
Chúa
Giê-su bảo tôi: “Hãy về mà học cho biết
ý nghĩa của câu này: Ta muốn lòng nhân
từ chứ đâu cần lễ tế.” Tôi sẽ học bài
học ấy ở đâu và thực hành như thế nào điều đã học?
Cầu nguyện:
“Lạy
Chúa Giê-su,
xin
cho con gặp được ánh mắt của Chúa ít là một lần trong đời.
Khi
tương lai con đang vững vàng ổn định,
xin
hãy nhìn con như Chúa đã nhìn Lê-vi
và
mời gọi con đứng lên theo Chúa, bỏ lại tất cả những gì con cậy dựa.
Khi
con chẳng còn là mình, vấp ngã như Si-môn,
xin
hãy quay lại nhìn con bằng ánh mắt xót thương, tha thứ,
để
con òa khóc như trẻ thơ.
Khi
con khao khát sống cuộc đời hoàn thiện,
xin
hãy nhìn con bằng ánh mắt yêu thương
như
Chúa đã trìu mến nhìn người thanh niên giàu có.
Khi
con ước mong được thấy khuôn mặt Chúa,
xin
Chúa hãy dừng lại và ngước lên nhìn con,
như
Chúa đã ngước lên nhìn Da-kêu và cho ông thấy cả tấm lòng bao la bát ngát.
Lạy
Chúa Giê-su,
xin
dạy chúng con biết nhìn con người hôm nay bằng ánh mắt của Chúa.
Chúa
động lòng thương khi thấy bao người yếu đau,
thấy
đám đông bơ vơ như chiên không mục tử.
Ánh
mắt Chúa thấu suốt lòng người.
Chúa
buồn phiền khi thấy có kẻ lòng chai dạ đá,
nhưng
Chúa cũng vui khi thấy bà góa nghèo bỏ vào tất cả.
Đôi
mắt Chúa đã từng nhòa lệ trước cái chết của người bạn thân là La-da-rô,
và
trước viễn ảnh sụp đổ của thành đô yêu dấu.
Lạy
Chúa, đôi mắt là cửa sổ của tâm hồn.
Xin
cho con qua cửa sổ ấy mà vào tâm hồn Chúa.
A-men.”
(Trích
RABBOUNI, lời nguyện 37)
Lm. Đaminh Trần Đình Nhi