Chúa Nhật thứ 15
Thường Niên
(10-7-2005)
Tại sao Đức Giêsu
dùng dụ ngôn?
ĐỌC LỜI CHÚA
·
Is 55,10-11: (11) Lời Ta một
khi phát ra từ miệng Ta, sẽ không trở về với Ta nếu chưa đạt kết quả, chưa thực
hiện ý muốn của Ta, chưa chu toàn sứ mạng Ta giao phó.
·
Rm 8,18-23: (19) Muôn loài thọ
tạo những ngong ngóng đợi chờ ngày Thiên Chúa mặc khải vinh quang của con cái
Người.
· TIN MỪNG: Mt 13,1-23
Dụ ngôn người gieo giống
(1) Hôm ấy, Đức Giêsu từ trong nhà đi ra ngồi ở ven Biển
Hồ. (2)
Dân chúng tụ họp bên Người rất
đông, nên Người phải xuống thuyền mà ngồi, còn tất cả dân chúng thì đứng trên
bờ. (3)
Người dùng dụ ngôn mà nói với họ nhiều điều.
Người nói: «Người gieo giống đi ra gieo giống. (4)
Trong
khi người ấy gieo, thì có những hạt rơi xuống vệ đường, chim chóc đến ăn mất. (5)
Có
những hạt rơi trên nơi sỏi đá, chỗ đất không có nhiều; nó mọc ngay, vì đất
không sâu; (6) nhưng khi nắng lên, nó liền bị cháy, và vì thiếu rễ
nên bị chết khô. (7) Có những hạt rơi vào bụi gai, gai mọc lên làm nó chết
nghẹt. (8) Có những hạt lại rơi nhằm đất tốt, nên sinh hoa kết
quả: hạt được gấp trăm, hạt được sáu chục, hạt được ba chục. (9)
Ai
có tai thì nghe».
Tại sao Đức Giêsu dùng dụ ngôn
mà nói?
(10) Các môn đệ đến gần hỏi Đức Giêsu rằng: «Sao Thầy lại dùng dụ ngôn mà nói với
họ?» (11) Người đáp: «Bởi vì anh em được ơn hiểu biết các mầu
nhiệm Nước Trời, còn họ thì không. (12) Ai đã có thì
được cho thêm và sẽ có dư thừa; còn ai không có thì ngay cái đang có cũng sẽ bị
lấy mất. (13) Bởi thế, nếu Thầy dùng dụ ngôn mà nói với họ, là vì
họ nhìn mà không thấy, nghe mà không hiểu. (14) Thế là đối
với họ đã ứng nghiệm lời sấm của ngôn sứ Isaia, rằng: Các ngươi có lắng tai
nghe cũng chẳng hiểu, có trố mắt nhìn cũng chẳng thấy; (15) vì lòng dân
này đã ra chai đá: chúng đã bịt tai nhắm mắt, kẻo mắt chúng thấy, tai chúng
nghe, và lòng hiểu được mà hoán cải, và rồi Ta sẽ chữa chúng cho lành.
(16) «Còn anh em, mắt anh em thật có phúc vì
được thấy, tai anh em thật có phúc, vì được nghe. (17) Quả thế,
Thầy bảo thật anh em, nhiều ngôn sứ và nhiều người công chính đã mong mỏi thấy
điều anh em đang thấy, mà không được thấy, nghe điều anh em đang nghe, mà không
được nghe.
Giải nghĩa dụ ngôn người gieo giống
(18) «Vậy anh em hãy nghe dụ ngôn người gieo
giống. (19) Hễ ai nghe lời rao giảng Nước Trời mà không hiểu, thì
quỷ dữ đến cướp đi điều đã gieo trong lòng người ấy: đó là kẻ đã được gieo bên
vệ đường. (20) Còn kẻ được gieo trên nơi sỏi đá, đó là kẻ nghe Lời
và liền vui vẻ đón nhận. (21) Nhưng nó không đâm rễ mà là kẻ nhất thời:
khi gặp gian nan hay bị ngược đãi vì Lời, nó vấp ngã ngay. (22)
Còn
kẻ được gieo vào bụi gai, đó là kẻ nghe Lời, nhưng nỗi lo lắng sự đời, và bả
vinh hoa phú quý bóp nghẹt, khiến Lời không sinh hoa kết quả gì. (23)
Còn
kẻ được gieo trên đất tốt, đó là kẻ nghe Lời và hiểu, thì tất nhiên sinh hoa
kết quả và làm ra, kẻ được gấp trăm, kẻ được sáu chục, kẻ được ba chục».
CHIA SẺ
Câu hỏi gợi ý:
1. Dụ ngôn là gì?
Tại sao Đức Giêsu lại dùng dụ ngôn?
2. Tại sao Lời Chúa
sinh hoa kết trái khác nhau giữa người này với người khác? Tại sao cùng nghe
Đức Giêsu, nhưng có kẻ theo Ngài, có kẻ lại chống đối?
3. Những kẻ theo
Ngài và những kẻ chống Ngài, trình độ hiểu biết của họ thế nào? Tại sao những
kẻ hiểu biết rất nhiều về Kinh Thánh như các kinh sư, luật sĩ lại không nhận ra
Ngài là Đấng Cứu Thế và đi đến chỗ giết Ngài?
Suy tư gợi ý:
1. Dụ ngôn là gì?
Dụ ngôn là những minh họa bằng hình ảnh quen
thuộc để giúp người ta hiểu được một thực tế khác cao siêu, trừu tượng, đồng
thời nắm được chân lý bao hàm trong ấy. Các dụ ngôn thường có tính cách vừa tỏ lộ
mà cũng vừa che
dấu chân lý về Thiên Chúa, về Nước Trời. Che dấu đối với «những bậc khôn ngoan thông thái»
(Mt 11,25a), những kẻ tự mãn với những gì mình đã biết về Thiên Chúa, cho rằng
sự hiểu biết của mình về Ngài đã viên mãn, trọn vẹn rồi, không cần phải tìm
kiếm hay học hỏi thêm. Còn tỏ lộ cho «những người bé mọn» (Mt 11,25b), tự cho
mình chưa biết nhiều về Thiên Chúa, cho rằng những hiểu biết của mình còn rất
thiếu sót, phiến diện, hời hợt, cần phải tìm hiểu sâu xa hơn để áp dụng vào đời
sống.
Các dụ ngôn có thể hiểu theo nhiều ý nghĩa
khác nhau tùy theo trình độ tâm linh của người hiểu. Người mới bước vào đời
sống tâm linh sẽ hiểu và áp dụng chúng vào đời sống theo cách đơn sơ của mình.
Nhờ đó họ tiến bộ được một quãng đường. Khi đời sống tâm linh của họ tiến bộ
hơn, họ lại khám phá ra dụ ngôn còn có ý nghĩa cao xa và thâm sâu hơn. Sau khi
kể một dụ ngôn, Đức Giêsu thường nói: «Ai có tai thì nghe» (Mt 11,15; 13,9;
13,43). Câu này có nghĩa: ai hiểu được thì hiểu, hiểu cách nào thì tùy tình
trạng hay trình độ tâm linh mỗi người; hoặc ai biết cách nghe thì sẽ hiểu, ai
thật lòng tìm hiểu thì sẽ hiểu (x. Mt 7,7-8).
2. Tại sao Đức Giêsu lại dùng dụ ngôn?»
Chắc chắn chúng ta cũng thắc mắc như các tông
đồ xưa: «Sao
Thầy lại dùng dụ ngôn mà nói với họ?» Sao không nói cho rõ sự thật
ra mà lại úp mở bằng dụ ngôn? Câu trả lời của Ngài chẳng làm ta hết thắc mắc mà
còn làm ta thắc mắc hơn: «Bởi vì anh em được ơn hiểu biết các mầu nhiệm Nước
Trời, còn họ thì không. Ai đã có thì được cho thêm và sẽ có dư thừa; còn ai
không có thì ngay cái đang có cũng sẽ bị lấy mất» (Mt 13,11-12).
a) Dụ
ngôn dấu ẩn chân lý đối với người tự mãn
Như vậy, những người không được «ơn hiểu biết
các mầu nhiệm Nước Trời» mà họ không hiểu, thì phải chăng họ không
có lỗi? – Thật ra họ có được ơn hiểu biết hay không, điều đó tùy thuộc vào việc
họ có khiêm cung hay không trong những hiểu biết của họ. Những ai tự hào mình
biết tất cả, không cần phải nghe hay học hỏi ai nữa – chẳng hạn các kinh sư,
luật sĩ, biệt phái thời của Ngài – thì Ngài càng nói rõ, họ càng không chấp
nhận, và càng muốn mưu toan hại Ngài hơn. Thật vậy, họ đã dựa vào những sự thật
Ngài nói ra để kết án tử hình Ngài. Vì thế, chính Đức Giêsu cũng khuyên các môn
đệ đừng nói chân lý với những kẻ không xứng đáng: «Của thánh, đừng quăng cho chó; ngọc
trai, chớ liệng cho heo, kẻo chúng giày đạp dưới chân, rồi còn quay lại cắn xé
anh em» (Mt 7,6).
b) Để
hiểu được chân lý phải từ bỏ mình và dấn thân
Những chân lý tôn giáo đều là những chân lý
“cho không biếu không”, người dạy chân lý thường không đòi hỏi một khoản thù
lao nào. Nhưng để hiểu và lãnh hội được, người muốn hiểu phải dám hy sinh tất
cả, không tiếc một điều gì: từ của cải, sức khỏe cho đến mạng sống, nhất là
phải «từ
bỏ mình», nghĩa là không đặt nặng «cái tôi» và cố chấp vào
những hiểu biết của mình (x. Mt 13,44-46). Trong lịch sử Thiền tông Trung Hoa,
Đạt-Ma tổ sư chỉ bắt đầu truyền đạo cho Huệ Khả – về sau trở thành Nhị Tổ – khi
ông này dám tự chặt tay mình để chứng tỏ sự quyết tâm từ bỏ tất cả cho việc tìm
chân lý. Ngoài ra, kẻ tìm đạo còn phải sẵn sàng dẹp bỏ cả những kiến thức cũ
của mình (x. Mt 11,25). Cố chấp vào những hiểu biết cũ còn thấp kém, thì không
thể tiếp nhận những chân lý cao xa, vượt khỏi trình độ của những hiểu biết cũ.
Cũng trong Thiền tông, Thần Tú tuy kiến thức uyên bác, nhưng vì cố chấp vào
những kiến thức cũ của mình, nên không thể lãnh hội được chân lý của Ngũ Tổ;
trái lại, Huệ Năng, ít học hơn Thần Tú rất nhiều, lại hiểu được và trở thành
Lục Tổ Thiền tông.
Như vậy, để lãnh hội được chân lý về Thiên
Chúa, về Nước Trời, phải có tâm cầu đạo. Ai đã có tâm cầu đạo, thì đã
ít nhiều có đạo
tâm rồi, đã hiểu được lẽ đạo là phải «từ bỏ mình», coi nhẹ «cái tôi»
của mình, không tự mãn hay cậy vào những hiểu biết cũ của mình, và thật sự sống
những gì họ biết về Thiên Chúa, cho dù còn ít ỏi. Nhờ dấn thân sống những hiểu
biết dù ít ỏi đó, họ bắt đầu có kinh nghiệm về Thiên Chúa. Càng kinh nghiệm về
Thiên Chúa, họ càng có đạo tâm nhiều hơn. Còn kẻ không có tâm cầu đạo, là kẻ
chưa có đạo tâm, nên luôn tự hào về «cái tôi» của mình, về những điều mình đã
học biết về Thiên Chúa, không thể sống đạo thật sự vì chưa từ bỏ mình, do đó
không thể có kinh nghiệm về Thiên Chúa. Và nếu cứ cậy vào những hiểu biết mà họ
tự mãn, họ sẽ ngày càng hiểu sai về đạo, và xa cách Thiên Chúa, cho dù bên
ngoài họ có vẻ như rất gần Ngài. Đó chính là ý nghĩa của câu «Ai đã có thì
được cho thêm, và sẽ có dư thừa; còn ai không có, thì ngay cái đang có, cũng sẽ
bị lấy mất» (Mt 13,12).
c) Biết
về Thiên Chúa khác với kinh nghiệm về Ngài
Người học biết nhiều về Thiên Chúa khác với
người có kinh nghiệm về Ngài. Biết nhiều về Thiên Chúa giống như người có một
bản đồ thành phố trong tay và thuộc kỹ tấm bản đồ đó, nhưng vì tự mãn lấy thế
làm đủ, nên chưa hề dấn thân ra đi đến thành phố ấy. Còn người có kinh nghiệm
về Ngài giống như người đã thật sự đi trên những con đường của thành phố, được
ngắm tận mắt những cảnh trí trong thành phố.
Hai cách tiếp cận ấy rất khác nhau và đi đến
những hệ quả khác nhau. Người hiểu biết nhiều thì hay tự mãn, tự đặt mình trên
người khác, từ đó thích củng cố quyền uy, ham được ca tụng, và Lời Chúa bị chết
ngạt trong họ. Còn người có kinh nghiệm về Thiên Chúa thì ngày càng giống Thiên
Chúa, sống quên mình, phục vụ, khiêm nhu, và Lời Chúa sinh hoa kết trái trong
họ. Nhìn lại lịch sử, ta thấy các kinh sư Do Thái đều là những bậc thầy về tôn
giáo, rất thông thạo những lời tiên tri về Đấng Cứu Thế. Nhưng mỉa mai thay khi
Đấng Cứu Thế đến, họ không nhận ra Ngài, thậm chí còn giết Ngài nữa. Lý thuyết
về Đấng Cứu Thế mà họ rất tinh thông, trong thực tế, chẳng ích lợi gì cho họ mà
còn cản trở họ nhận ra Ngài. Chính vì họ quá tự mãn, cố chấp vào lý thuyết ấy,
dùng nó như một phương tiện để thăng tiến bản thân trong tôn giáo hơn là để dấn
thân sống theo nó. Còn các môn đệ và một số dân chúng, chẳng biết nhiều về Đấng
Cứu Thế, nhưng lạ thay, khi Ngài đến, họ nhận ra Ngài, theo Ngài, và được cứu
rỗi, chính vì họ khiêm tốn, đơn sơ và chân thành. Họ là người được Thiên Chúa
chúc phúc.
CẦU NGUYỆN
Lạy Cha, Lời Đức Giêsu gieo vào lòng mọi
người nhưng lại sinh hoa kết trái khác nhau. Nơi người khiêm nhường, dám từ bỏ
mình, dám dấn thân sống theo Lời Ngài, thì Lời Ngài sinh hoa kết quả bội phần.
Còn kẻ tự hào tự mãn về những hiểu biết của mình về Lời Ngài, thường không chịu
sống theo Lời ấy. Lời Chúa trong họ bị ngạt bởi chính «cái tôi» của họ, bởi lòng
ham uy danh và quyền lợi của họ, bởi chính những hiểu biết mà họ tự cho là đã
quá đủ. Xin Cha cho con biết khiêm nhường, biết từ bỏ mình, để lòng con trở
thành một thửa đất tốt thuận lợi cho Lời Chúa sinh hoa kết trái như Cha mong
ước.
Joan Nguyễn Chính Kết