CHỨNG TỪ HI VỌNG
Chúa Nhật 6A Phục sinh
Hơn lúc nào thế giới cần đến niềm hi vọng. Nhưng ai có thể đem lại niềm hi vọng cho nhân
loại ? Câu trả lời sẽ được tìm thấy
trong lời Chúa hôm nay.
TẠI SAO HI VỌNG ?
Giữa những bấp bênh của cuộc sống hôm
nay, con người trải qua nhiều nỗi thất vọng khác nhau. Càng thất vọng, con người càng không tìm được
lẽ sống và không biết bám víu vào đâu.
Hôm nay, Đức Giêsu mạc khải lẽ sống chính là sự sống Ba Ngôi Thiên Chúa
trong tâm hồn tín hữu. Đó là câu “trả lời
cho bất cứ ai chất vấn về niềm hi vọng của anh em.” (1 Pr 3:15) Rất huyền nhiệm và rất xác thực !
Thật vậy, sở dĩ thế gian đầy dẫy những
con người thất vọng vì không có con đường giải thoát. Khắp nơi tràn ngập những gian trá, lừa đảo. Thế gian : gian là thế ! Chính vì thế, “Thần Khí sự thật, Đấng mà thế
gian không thể đón nhận, vì thế gian không thấy và cũng chẳng biết Người.” (Ga
14:17) Thế gian sống trong ảo vọng. Không thể tìm thấy niềm hi vọng trong những mớ
ảo vọng đó.
Trái lại, niềm hi vọng của người Kitô hữu
vững chắc như chính Thần Khí sự thật.
Niềm hi vọng đó vô cùng lớn lao, “vì Người luôn ở giữa anh em và ở trong
anh em.” (Ga 14:17) Người luôn hiện diện
giữa cộng đoàn và trong tâm hồn các tín hữu để bảo vệ họ khỏi nanh vuốt Satan là
cha mọi sự dối trá. Bè lũ chúng đang âm
mưu kéo sập các cộng đoàn Dân Chúa và cô lập hóa các Kitô hữu.
Nhưng Đức Giêsu đã hứa : “Thầy sẽ không để
anh em mồ côi.” (Ga 14:18) Cho dù kéo bè kéo cánh, kẻ thù vẫn không thể áp
đảo các Kitô hữu. Dù bị hất hủi hay phản
đối, họ vẫn không cô đơn, vì niềm tin đã khơi lên niềm hi vọng lớn lao trong tâm
hồn và cuộc đời họ. Chính những lúc đau
khổ và trống vắng nhất là những lúc họ đầy ắp ân sủng. Với nguồn ân sủng lớn lao,
“Thầy sẽ đến cùng anh em” (Ga 14:18) để đối phó kịp thời với những âm mưu đen tối. Chính tình yêu đã thúc đẩy bước chân Người đến
với chúng ta.
Chính con mắt đức tin làm cho “anh em sẽ được
thấy Thầy, vì Thầy sống và anh em sẽ sống” (Ga 14:19) với tất cả niềm vui và tràn
đầy hi vọng. Người môn đệ không thể thể
sống mà không có Thầy. Sự sống Thầy bảo đảm cho tín hữu không phải rơi
vào hố diệt vong. Ai có thể cất mạng sống
Thầy ? Ai có thể thể tách lìa họ khỏi
Thầy ? Còn sống là còn hi vọng. Đó là
lý do tại sao họ vẫn giữ được niềm hi vọng dù phải sống giữa những hoàn cảnh
tuyệt vọng. Các thánh tử đạo là một bằng
chứng hùng hồn. Không một lý do tự nhiên
nào có thể giải thích nổi những hành vi gan dạ đó. Không phải nhờ ý chí vững mạnh hơn người. Cũng không phải vì cuồng tín. Trái lại, từ cảm nghiệm sâu xa của niềm tin,
“anh em sẽ biết rằng Thầy ở trong Cha Thầy, anh em ở trong Thầy, và Thầy ở
trong anh em.” (Ga 14:20) Thế chân vạc đó
đủ bảo đảm cho tín hữu sống vững mạnh giữa những chao đảo trong cuộc sống.
Lọt vào tương quan ba chiều đó, người tín
hữu sẽ vô cùng bình an và hạnh phúc. Từ
nguồn mạch tình yêu đó, “Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em một Đấng
Bảo Trợ khác đến ở với anh em luôn mãi.” (Ga 14:16) Như thế, dưới sự phù trợ của Thánh Linh, người
tín hữu sẽ lao mình vào cuộc chiến để dành phần thắng cho Nước Chúa. Đó là lý do tại sao các môn đệ có thể mạnh mẽ
“rao giảng Đức Kitô” (Cv 8:5) khắp thế giới, bất chấp mọi hiểm nguy.
Nhưng làm sao có thể rao giảng “Đức Kitô
Giêsu, niềm hi vọng của chúng ta” (1 Tm 1:1), nếu người môn đệ không được mạc
khải về Người ? Làm sao được mạc khải nếu
không đi vào tương quan sâu xa với Ba Ngôi ?
Thật vậy, “ai yêu mến Thầy, thì sẽ được Cha Thầy yêu mến, Thầy sẽ yêu mến
người ấy, và sẽ tỏ mình ra cho người ấy.” (Ga 14:21) Có cảm nghiệm sâu xa về tình yêu Thiên Chúa
như thế, mới có thể rao giảng Tin Mừng của niềm hi vọng cho muôn dân. Khả năng rao giảng bắt nguồn từ chính nỗ lực
liên kết với Thầy trong tình yêu. Thật vậy,
“ai có và giữ các điều răn của Thầy, người ấy mới là kẻ yêu mến Thầy.” (Ga
14:21) Điều răn là mối giây ràng buộc môn
đệ với Thầy chí thánh và là chiếc cầu đến với nhân loại. Chính “Thầy đã giữ điều răn của Cha Thầy và ở
lại trong tình thương của Người.” (Ga 15:10) Chính vì thế, “thân xác Người đã bị giết chết,
nhưng nhờ Thần Khi, Người đã được phục sinh” (1 Pr 3:18) để đem niềm hi vọng
cho toàn thể nhân loại và “để anh em được hưởng niềm vui của Thầy, và niềm vui
của anh em được nên trọn vẹn.” (Ga 15:11)
Niềm vui chính là dấu chỉ niềm hi vọng tràn ngập tâm hồn. Đó là lý do tại sao người môn đệ có thể đặt
hết niềm tin tưởng và tình yêu nơi Đức Giêsu Kitô. Quả thực, “lòng tin và lòng mến đó phát xuất
từ niềm trông cậy dành cho anh em trên trời, niềm trông cậy anh em đã được nghe
loan báo khi lời chân lý là Tin Mừng đến với anh em” (Cl 1:5-6a) như một sức mạnh
giải thoát.
NIỀM HI VỌNG HÔM NAY.
Nhân loại đang cần sức mạnh giải thoát đó,
vì cơn thất vọng đã tràn ngập khắp nơi.
Giáo Hội cũng có trách nhiệm một phần về cơn thất vọng đó, vì đã tạo ra
những gương mù cho nhân loại, nhất là cho giới trẻ. Việc Giáo Hội xin lỗi nhân loại đã chứng
minh trách nhiệm đó. Vấn đề hôm nay không
chỉ dừng lại ở đó. Nhưng Giáo Hội phải đi
xa hơn để đem lại niềm hi vọng lớn lao cho nhân loại bù đắp lại những lỗi lầm và
mở ra một vận hội mới cho hạnh phúc nhân loại.
Vận hội mới chỉ đến khi “Giáo Hội hết sức góp phần vào việc làm
cho gia đình và lịch sử nhân loại ngày càng nhân bản hơn.” (ĐGH Gioan Phaolô II : Zenit 30/04/02) Muốn thế, Giáo Hội không thể rời xa niềm tin
vào Đức Giêsu như niềm hi vọng duy nhất của nhân loại và địa vị con người. Quả thực, “rõ ràng vì con người được ban cho
một địa vị khác thường, nên không thể giản lược cuộc sống vào những điều kiện xã
hội, kinh tế, văn hóa hay chính trị thiếu nhân bản.” (ĐGH Gioan Phaolô II :
Zenit 30/04/02) Nhân loại càng lâm vào
cơn thất vọng bao nhiêu, Giáo Hội càng cần xác tín sứ mệnh “không những truyền
thông sự sống Thiên Chúa cho dân chúng, nhưng một cách nào đó còn chiếu giãi ánh
sáng phản chiếu đời sống đó trên toàn thể trái đất.” (ĐGH Gioan Phaolô II :
Zenit 30/04/02) Đem lại sự sống đó là trả
lại niềm hi vọng lớn lao cho nhân loại.
Giáo Hội phải là niềm hi vọng giữa những người
mất niêm hi vọng. Giáo Hội “trở nên tiếng
nói của những người không tiếng nói, đồng thời phải cho mọi người thấy rằng nhân
phẩm luôn phải ở trung tâm mọi chương trình địa phương, quốc gia và quốc tế.” (ĐGH
Gioan Phaolô II : Zenit 30/04/02) Tiếng
nói của Giáo Hội phải là tiếng nói của niềm hi vọng, phát xuất từ tâm hồn đầy ắp
tình yêu Thiên Chúa Ba Ngôi và từ “những
cộng đoàn Kitô hữu đang sống tình liên đới nhân loại cách sâu xa và chân thành,
giàu tính hiệp thông và tình bằng hữu.” (ĐGH Gioan Phaolô II : Zenit 30/04/02) Nhưng “thật đáng tiếc, thay vì nhìn Giáo Hội
như một nơi tự nhiên có thể gặp gỡ Đức Kitô, nhiều bạn trẻ thấy Giáo Hội như một
thực thể xa lạ, không đáng tin lắm và không có khả năng nói truyện với người thời
đại.” (Hội Nghị các giám mục Aâu Châu : Zenit 30/04/02) Muốn cải tiến, Giáo Hội phải gấp rút “coi các
bạn trẻ Kitô hữu không phải chỉ như một lãnh vực hay đối tượng đặc biệt của mục
vụ, nhưng phải được nhìn nhận và đón nhận như một hồng ân Đức Kitô ban cho Giáo
Hội trong tất cả các sứ mệnh đang thực hiện.” (Hội Nghị các giám mục Aâu Châu :
Zenit 30/04/02)
Lm. Giuse Đỗ Vân Lực, OP