GIỮA
HAI LẰN ĐẠN
Chúa Nhật 2A Mùa Chay
Chân phước Fra
Angelico, Dòng Đa Minh, là một nhân vật nổi tiếng vì “có khả năng hiện đại hóa
và thích ứng việc rao giảng Tin Mừng với nhu cầu thời đại theo đường lối đặc biệt. Oâng có
khả năng nói với người thời đại hôm nay bằng ngôn ngữ sống động của nghệ thuật
hội họa, một sự kết hiệp tuyệt vời và tài tình giữa cái đẹp và sứ điệp Kitô giáo
nhân bản. Toàn bộ tác phẩm về hai thánh
Stêphanô và Lôrensô của ông xoay quanh đức ái đối với Thiên Chúa và anh chị
em. Một đức ái coi người nghèo là những
kho tàng đích thực của Giáo Hội và cố gắng hiến thân minh chứng niềm tin là động
lực thúc đẩy việc bác ái.” (Vidimus Domininum, 16/2/2002)
BIẾN MÀ KHÔNG BIẾN.
Tình yêu là động lực
chính tạo nên cảnh biến hình trên núi hôm nay.
Cuộc đời Đức Giêsu bắt đầu chuyển vào lối rẽ khi “Người đưa các ông đi
riêng ra một chỗ, tới một ngọn núi cao” (Mt 17:1) để mạc khải tất cả sức mạnh
tình yêu. Không tình yêu, chắc chắn các
môn đệ còn trăn trở mãi với những hình ảnh đau thương về thân phận Thầy trong tương
lai. Lời tiên báo Thày “phải chịu nhiều
đau khổ” và “bị giết chết” (Mt 16:21) đã gây bàng hoàng cho các môn đệ. Cuộc biến hình đã thay hình đổi dạng Thày bên
ngoài, nhưng thực sự đã biến đổi các môn đệ tự bên trong. Tất cả những biến đổi đó đều để chuẩn bị cho
cuộc biến đổi lớn lao hơn sau này. Đúng
hơn, cuộc biến đổi đó không phải là biến đổi.
Đó chỉ là bước củng cố niềm tin các môn đệ. Đem các môn đệ vào một nơi an toàn trước bao
sóng gió sắp xảy đến.
Nơi an toàn đó là
tình yêu Thiên Chúa. Đức Giêsu tạm thời
rời bỏ cuộc đời đầy biến động để vào nơi thường hằng bất biến. Người đi vào một nơi vô thời gian tức là
cung lòng Chúa Cha. Nơi đây mới thấy tất
cả sức mạnh tột đỉnh của tình yêu.
Chính sức mạnh tình yêu khiến “Người biến đổi hình dạng trước mặt các ông.
Các môn đệ không thể
chấp nhận một kế hoạch thất bại như Đức Giêsu đã tiên báo. Vâng lời Thày là đánh
mất Thày. Giữa lúc đang căng thẳng như
thế, các môn đệ nghe “có tiếng từ đám mây phán rằng: ‘Các ngươi hãy vâng nghe lời
Người !’” (Mt 17:5) Trước đó các ông đã không vâng nghe. Sau khi choáng váng vì
nghe Đức Giêsu tiên báo cuộc Thương Khó lần thứ nhất, ông Phêrô trách Người:
“Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy !”(Mt 16:22) Những chuyện xui xẻo ấy sẽ phá tan giấc mộng Thiên
Sai về Thày.
Thế nhưng thánh ý
Thiên Chúa thật mầu nhiệm. Nếu còn tin
tưởng nơi Thày, các môn đệ phải đi vào tương quan sâu xa với Thày, như chính Thày
đang ở trong tình yêu Chúa Cha. Tình yêu
đã khiến Đức Giêsu hiểu được tất cả chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Cũng trong tình yêu đó, Người đã được sai đến
để thực hiện tất cả những gì các tiên tri và lề luật đã nói. Chính vì thế, “ông Môsê và ông Êlia hiện ra đàm
đạo với Người” (Mt 17:3) về lời hứa cứu độ sắp được thực hiện cho nhân loại. Oâng Phêrô cảm thấy bầu khí ấm cúng như gia đình
Ba Ngôi Thiên Chúa. Môsê tượng trưng cho
Chúa Cha, Đấng tạo dựng vũ trụ. Ngôn sứ
Êlia đại diện cho sức mạnh Thánh Linh. Tất cả quây quần bên Chúa Con như bảo đảm công
cuộc cứu độ sắp thực hiện. Đó là một
huyền nhiệm đối với các môn đệ. Huyền
nhiệm đến nỗi khi nghe lời Chúa Cha, “các môn đệ kinh hoàng, ngã sấp mặt xuống đất.”
(Mt 17: 6) Thực tế khủng khiếp quá ! Chạy trời không khỏi nắng ! Các ông là những nạn nhân đáng thương của
chính mình. Họ mắc kẹt giữa hai lằn đạn
!
Giữa lúc kinh hoàng
như thế, các ông tưởng như trời sập. Nhưng
“bấy giờ Đức Giêsu lại gần, chạm vào các ông và bảo : ‘Trỗi dậy đi, đừng sợ !’”
(Mt 17:7) Đức Giêsu đã kịp thời kéo họ
ra khỏi cơn mê. Chỉ một mình Người mới đem
lại bình an và ơn cứu độ cho toàn thể nhân loại. Đúng như Tin Mừng quả quyết : “Các ông ngước
mắt lên, không thấy ai nữa, chỉ còn một mình Đức Giêsu” (Mt 17:8) dẫn các ông vào
cuộc chống trả ác thần. Chính lúc “ngước
mắt lên”, các ông thấy rõ “Đấng cứu độ chúng ta là Đức Kitô Giêsu đã xuất hiện”
để “tiêu diệt thần chết.” (2 Tm
1:10) Cái nhìn thật tuyệt vời. Cái nhìn đầy tin tưởng và hi vọng. Từ tình
trạng “kinh hoàng, ngã sấp mặt xuống đất”, các ông đã được kêu gọi tham gia vào
“kế hoạch và ân sủng của Người.” (2 Tm 1:9) Nhưng phải đợi “đến khi Con Người từ cõi chết
trỗi dậy,” (Mt 17:9) các ông mới biết Người “đã dùng Tin Mừng mà làm sáng tỏ phúc
trường sinh bất tử” (2 Tm 1:10) cho toàn thể nhân loại.
Chính vì thế, Đức Giêsu
đã được Chúa Cha chúc phúc “thành một dân lớn” “tên tuổi được lừng lẫy” (St
12:2) khắp vũ trụ. Cũng như Abraham, Người đã ra đi và chấp nhận mọi gian khổ để
“cứu độ và kêu gọi chúng ta vào dân thánh của Người.” (2 Tm 1:9) Có thế mới thấy ngày “mọi gia tộc trên mặt đất
sẽ được chúc phúc,” (St 12:3) vì Người “là mối phúc lành” (St 12:2) Thiên Chúa hứa
cho toàn thể nhân loại. Phúc lành ấy như
ánh sáng không chỉ chiếu soi ba môn đệ trên ngọn núi hôm ấy, nhưng đã lan tỏa
khắp vũ trụ cho tới muôn đời, đúng như Người nói : “Tôi là ánh sáng thế gian.” (Ga 8:12)
ÁNH SÁNG TIN MỪNG.
Hơn lúc nào, ánh sáng
cần phải chiếu soi vào đêm tối trần gian.
Thần tăm tối đang hoành hành khắp vũ trụ. Thiên Chúa muốn dùng Giáo Hội như “ánh sáng
cho trần gian.” (Mt 5:14) Sứ mệnh trọng
đại đó phải bắt đầu bằng những nỗ lực suy tư
và hoạt động để Phúc âm hóa môi trường.
Thực vậy, “thần học hoàn thành nhiệm vụ suy tư khi đáp ứng được ý Chúa muốn cứu độ toàn thể
vũ trụ, vì Người muốn ‘mọi người được cứu và nhận biết sự thật.’(1 Tm 2:4) Bởi vậy, càng hiểu biết sâu xa về chân lý mạc
khải bao nhiêu, thần học càng phục vụ toàn thể dân Chúa bấy nhiêu, càng nuôi niềm
hi vọng và củng cố sự hiệp thông.” (Gioan Phaolô II, Zenit 18/02/2002) Đó là những ánh sáng cần thiết cho người môn đệ
ứng phó với những thách đố lớn lao trong sứ mệnh làm chứng cho Thiên Chúa tình
yêu.
Thế nhưng sứ mệnh làm
chứng hôm nay đang đặt Kitô hữu trước những thách đố mới. Quả thực, hoàn cảnh đã thay đổi sâu xa. Theo Hội Dòng Maryknoll, “cụ thể việc truyền giáo hôm nay phảiø đi tiên phong trong
việc loan báo, đối thoại liên tôn, làm chứng, và thăng tiến nhân loại.” (Vidimus Domininum, 16/2/2002) Nếu
không được biến hình trong ánh sáng Phục sinh, làm sao họ có thể can đảm “loan
báo Tin Mừng” (2 Tm 1:8b) ? Khi đã được
biến hình trên núi với Chúa, họ sẽ thấy “mọi phương diện cuộc sống nhân sinh :
xã hội, cá nhân, tình cảm, tình dục, tâm lý, kinh tế và chính trị – cũng như tôn
giáo và thiêng liêng – phải được sức mạnh giải thoát của Tin Mừng cải biến và
canh tân.” (Joseph Veneruso, Vidimus
Domininum, 16/2/2002) Sức mạnh đó hôm
nay bao trùm toàn thể tông đồ. Chỉ ai lên
núi mới có thể tìm được tất cả sức mạnh tình yêu trong ánh sáng Phục sinh. Cuối cùng chỉ tình yêu mới có thể thay đổi cục
diện thế giới. Bao giờ người môn đệ mới
lên núi Chúa để đem ánh sáng Phục sinh chiếu tỏa vào đêm đen nhân loại hôm nay
?
Lm. Giuse Đỗ Vân Lực, OP