Chúa Nhật III mùa Chay
Ta
đã có dịp suy niệm về lòng tin của Chúa Giê-su nơi Thiên Chúa khi Người chống lại
cám dỗ của ma quỷ trong hoang địa (CN I mùa Chay) và khi Người quyết định chấp
nhận cuộc Thương khó trong lúc Hiển dung trên núi (CN II mùa Chay). Giờ đây, đến lượt ta phải xét lại lòng tin của
ta vào Chúa Ki-tô như nền tảng để được đồng hình đồng dạng với Người và được
Người cứu độ. Để giúp ta xét lại lòng
tin ấy, Phụng vụ Lời Chúa kể lại câu truyện Cựu Ước về ông Mô-sê cùng dân Chúa
đã thử thách Thiên Chúa trong sa mạc và câu truyện Tân Ước về cuộc gặp gỡ của
Chúa Giê-su bên bờ giếng Gia-cóp với người phụ nữ Sa-ma-ri. Đồng thời đoạn thư thánh Phao-lô cũng mời gọi
ta hãy hết lòng tin vào tình yêu Thiên Chúa, tình yêu sẽ cứu độ ta.
1.
Lòng tin của ông Mô-sê và dân Ít-ra-en (bài đọc Cựu Ước – Xh 17:3-7)
Trong
Cựu Ước, nhiều nơi chốn hoặc nhân vật được đặt tên là để nói lên sự cố đã xảy
ra tại đó hoặc sứ mệnh người ấy sẽ thi hành.
Trong câu truyện Cựu Ước hôm nay, hai địa danh Ma-xa và Mơ-ri-va trong
sa mạc Xin có nghĩa là thử thách và gây sự.
Đúng vậy, dân Ít-ra-en đã thử thách và gây sự với Thiên Chúa, Đấng đem họ
ra khỏi ách nô lệ cho Ai-cập và đang đưa họ vào Đất hứa.
Ra
đi và sống trong điều kiện khó khăn của sa mạc, mọi sự đều thiếu thốn chứ không
được thoải mái như những ngày tại Ai-cập.
Ngay cả những nhu cầu tối thiểu quan hệ tới sự sống còn cũng thiếu thốn,
thí dụ của ăn nước uống. Rời Ai-cập, dân
Ít-ra-en đóng trại tại Ê-lim. Lương thực
mang theo từ Ai-cập bắt đầu cạn. Họ nhổ
trại lên đường vào sa mạc, từ đây thử thách ngày càng nhiều và họ bắt đầu phàn
nàn kêu trách Chúa và ông Mô-sê. Họ thèm
ăn bánh với thịt và Chúa đã cho xuất hiện man-na cùng chim cút để họ được no nê
(Xh 16). Tiếp tục lên đường tới sa mạc
Xin, họ không có nước uống. Thế là lại
thêm một màn kêu trách và dân chúng còn muốn ném đá ông Mô-sê cho chết nữa. Thiên Chúa can thiệp và Người dạy ông Mô-sê lấy
cây gậy đã cứu dân tại sông Nin mà đập vào tảng đá ở núi Khô-rếp để nước chảy
ra cho dân chúng uống. Tuy nhiên không
chỉ có dân Ít-ra-en thử thách Chúa, mà chính lòng tin của ông Mô-sê cũng bị thử
thách. Thiên Chúa dạy ông cầm gậy đập
vào tảng đá chỉ một lần, nhưng ông lại đập hai lần. Do đó, ông đã bị Thiên Chúa trừng phạt không
được vào Đất hứa cùng với dân chúng, nhưng phải chết bên kia bờ sông Gio-đan
(Ds 20:1-13).
Lòng
tin bị thử thách là điều có thể xảy đến cho mọi người, từ vị giáo hoàng cho đến
người tín hữu, nhất là khi con người gặp phải những nghịch cảnh. Khi ta nghĩ rằng chỗ đứng của Chúa trong đời
ta không còn ý nghĩa, lời Chúa không còn chiếu sáng đường đi của ta và thậm chí
cả đến sự can thiệp của Chúa không như ta mong muốn, thì những lúc ấy chính ta
đang thử thách Chúa và lòng tin của ta đang gặp hiểm nguy. Dân Ít-ra-en đả thử thách Thiên Chúa rằng: “Có Đức Chúa ở giữa chúng ta hay không?” (Xh
17:7). Không riêng gì dân Ít-ra-en ngày
xưa, mà mọi thời mọi nơi thứ thử thách ấy vẫn tái diễn trong tâm hồn mọi người. Thực ra, luôn có những dấu chỉ nói lên sự hiện
diện của Chúa trong đời ta, nhưng rất nhiều khi ta không muốn đọc những dấu chỉ
ấy, hoặc chỉ muốn thay thế những dấu chỉ ấy bằng những dấu chỉ do ta tạo
nên. Thí dụ, nếu quả thực có Chúa trong
đời tôi, thì tôi phải được khỏi bệnh, phải có việc làm, phải được ơn này ơn nọ…
Trong câu truyện Cựu Ước, Chúa bảo Mô-sê:
“Còn Ta, Ta sẽ đứng ở đằng kia trước mặt ngươi, trên tảng đả ở núi
Khô-rép”. Đúng thế, Chúa luôn luôn hiện
diện trước mặt Mô-sê và Người cũng luôn hiện diện trước mặt ta, dù trong bất cứ
hoàn cảnh nào. Như vậy, ta không thể
nghi ngờ gì về sự hiện diện của Chúa nữa.
2.
Lòng tin vào Chúa Giê-su của người phụ nữ Sa-ma-ri (bài Tin Mừng – Ga 4:5-42)
Câu
truyện Tân Ước không phải là câu truyện lòng tin Chúa bị thử thách mà là câu
truyện nhận được lòng tin vào Chúa Giê-su.
Vì Chúa là đối tượng lòng tin của ta nên đức tin được gọi là nhân đức đối
thần. Chính Chúa và thế giá uy quyền của
Người đã đem lại lòng tin cho ta, do đó đức tin là điều Chúa ban cho ta chứ
không phải tự ta tạo ra được. Vậy ta hãy
đi vào khung cảnh gặp gỡ giữa Chúa Giê-su và người phụ nữ Sa-ma-ri bên bờ giếng
Xy-kha, để xem Chúa đã đem đức tin đến cho bà như thế nào.
Chúa
Giê-su ngồi bên bờ giếng, chuẩn bị cho một cuộc gặp gỡ quan trọng với người phụ
nữ Sa-ma-ri, một cuộc gặp gỡ để người ta nhận ra mình là ai: con người tội lỗi nhận biết và tin kính Chúa
Giê-su là Đấng Cứu Độ. Từ câu chuyện xin
nước uống, Chúa Giê-su đã khéo léo đưa tới việc khám phá ra căn tính của
nhau. Về phía người phụ nữ Sa-ma-ri, căn
tính dần dần được biểu lộ rõ rệt hơn.
Trước hết bà chỉ là “một phụ nữ Sa-ma-ri”, sau đó bà là người “không có
chồng”, rồi là người “đã có năm đời chồng” và cuối cùng là người đang sống với
người đàn ông không phải là chồng! Căn
tính càng lộ, hình ảnh của bà càng tối tăm thêm. Trái lại, càng nhận biết thân phận mình, bà
càng tiến thêm trong cuộc khám phá căn tính của Chúa Giê-su. Về phần Chúa Giê-su, đầu tiên người phụ nữ
Sa-ma-ri chỉ coi Chúa Giê-su là “người Do-thái”, dĩ nhiên là một người không thể
thân thiện với người Sa-ma-ri. Tiếp theo
là một nghi vấn của người phụ nữ Sa-ma-ri:
“Chẳng lẽ ông lớn hơn tổ phụ chúng tôi là Gia-cóp?” Rồi sau khi Chúa Giê-su cho biết bà đang sống
với người đàn ông không phải là chồng thì bà coi Chúa là “một ngôn sứ”. Sau cùng, được nghe Chúa giải thích về sự thờ
phượng đích thực trong thần khí và sự thật, bà đã nghi ngờ Người chính là “Đấng
Mê-si-a”. Tới lúc này, Chúa Giê-su đích
thân mặc khải cho bà: “Đấng ấy chính là
tôi, người đang nói với chị đây”.
Đức
tin của người phụ nữ Sa-ma-ri tiến triển từng giai đoạn. Tuy nhiên có một điểm rõ ràng trong câu truyện
là khi bà càng thật lòng và khiêm nhượng nhìn nhận con người tội lỗi của bà thì
bà càng thấy rõ hơn Chúa Giê-su là Đấng nào.
Lòng tin tỷ lệ với lòng khiêm nhượng.
Nếu ta càng khiêm nhượng nhìn nhận sự siêu việt của Chúa thì lòng tin của
ta càng lớn. Đúng vậy, làm sao ta có thể
được cứu độ nếu ta không tin Chúa Giê-su là Đấng Cứu Thế? Đây cũng là lý do Giáo Hội chọn bài Tin Mừng
này cho cuộc sát hạch các dự tòng lần thứ nhất, để họ công khai tuyên xưng lòng
tin vào Chúa Giê-su là Đấng Cứu Thế trước khi họ được rửa tội vào đêm Vọng Phục
Sinh.
3.
Lòng tin của ta vào Chúa Ki-tô, Đấng đã chết để cứu độ ta (bài đọc Tân Ước – Rm 5:1-2,5-8)
Thánh Phao-lô đã trình bày sự cần thiết của đức
tin vào Chúa Ki-tô. Nhờ đức tin, chúng
ta được trở nên con cái Chúa qua Bí tích Rửa tội và bắt đầu sống “niềm hy vọng
được hưởng vinh quang của Thiên Chúa”.
Hành trình đức tin của ta là hành trình tin rằng Thiên Chúa yêu thương
ta. Mà bằng chứng của lòng yêu thương ấy
chính là Chúa Ki-tô đã chết vì chúng ta.
Thánh Phao-lô giúp ta nhận ra lòng yêu thương của Thiên Chúa như
sau: “Khi chúng ta không có sức làm được
gì vì còn là hạng người vô đạo, thì theo đúng kỳ hạn, Đức Ki-tô đã chết vì
chúng ta”. Tội lỗi đã làm cho ta hoàn
toàn mất quyền đứng thẳng (jus-stare) trước mặt Chúa, nói khác đi là quyền làm
con cái Chúa. Cái chết của Chúa Ki-tô
đem lại cho ta sự công chính hóa (justification), tức là phục hồi cho ta quyền
đứng thẳng trước mặt Chúa. Ta là kẻ tội
lỗi, đâu có xứng đáng để Chúa Ki-tô chết vì ta.
Thế mà Người đã vui lòng chịu chết vì ta để “mở lối cho ta vào hưởng ân
sủng của Thiên Chúa”, ân sủng được làm con Chúa và sống đời sống mới trong
Thánh Thần. Cuộc hành trình đức tin của
ta luôn được nuôi dưỡng bằng “tình yêu của Thiên Chúa đổ vào lòng chúng ta nhờ
Thánh Thần”. Do đó, hành trình đức tin
là một hành trình liên tục, một đàng Thiên Chúa cho ta thấy Người yêu thương
ta, một đàng ta cố gắng nhận ra ý nghĩa tại sao Chúa Ki-tô đã chết vì ta để đáp
lại tình yêu của Người bằng cách sống xứng đáng như con cái Chúa.
Tin
Chúa Giê-su là Đấng Cứu Thế có nghĩa là tin rằng Người đã chết để chuộc lại những
tội lỗi ta đã phạm. Đức tin đó cũng
chính là đức tin người phụ nữ Sa-ma-ri đã tuyên xưng: “Tôi biết Đấng Mê-si-a, gọi là Đức Ki-tô, sẽ
đến. Khi Người đến, Người sẽ loan báo
cho chúng tôi mọi sự”. Tuy nhiên phải là
một đức tin được phát triển, giống như đức tin của người phụ nữ Sa-ma-ri, bởi
vì bà ấy “đã để vò nước lại” để chạy cho nhanh hơn vào thành và loan báo tin mừng
về Đấng Mê-si-a cho những người trong thành.
Nhờ thông tin nhanh chóng ấy, dân chúng trong thành được biết Chúa. “Không còn phải vì lời chị kể mà chúng tôi
tin. Quả thật, chính chúng tôi đã nghe
và biết rằng Người thật là Đấng cứu độ trần gian”.
4.
Sống Lời Chúa
Trong
mùa Chay, đặt lại vấn đề đức tin là điều quan trọng. Tâm điểm của đời sống Ki-tô hữu là đức
tin. Do đó, muốn có bất cứ sự thay đổi
nào, ta cũng phải bắt đầu từ đức tin.
Căn tính Ki-tô của ta đã được khởi đầu nhờ đức tin thì nó cũng cần được
phát triển nhờ đức tin. Đức tin luôn
luôn bị thử thách, vì nhờ có thử thách nên đức tin mới lớn mạnh được. Tuy nhiên đức tin cần được nuôi dưỡng do lòng
khiêm nhượng và được biểu lộ qua việc làm.
Ước gì mùa Chay sẽ là thời thuận tiện để ta sống đức tin của ta bằng việc
làm cụ thể trong cuộc sống hằng ngày, nhờ đó mọi người chung quanh sẽ nhận biết
ta là người Công giáo đích thực.
Suy nghĩ: Thánh Phao-lô viết: “Chúng ta lại còn tự hào về niềm hy vọng được
hưởng vinh quang của Thiên Chúa”. Những
lời này có ý nghĩa gì đối với tôi? Tôi
có nhận thấy niềm hy vọng ấy không? Nó
giúp tôi sống lạc quan như thế nào?
Cầu nguyện: Lạy Cha chí thánh, khi người phụ nữ xứ
Sa-ma-ri cho Đức Ki-tô, Chúa chúng con, nước uống, Người đã ban cho bà đức
tin. Vì Người tha thiết ước mong bà tin
vững mạnh, nên đã đốt lên trong lòng bà ngọn lửa yêu mến Cha. Nay chúng con nhận biết mình yếu hèn lầm lỗi,
và hết lòng sám hối ăn năn; xin Cha
thương đoái nhìn chúng con và đưa tay nâng đỡ.
Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô, Chúa chúng con. A-men.
(Kinh tiền tụng và lời nguyện nhập
lễ, Chúa Nhật III mùa Chay)
Lm. Đaminh Trần Đình Nhi
20-2-2008