Lễ Thánh Gia Thất, A
(2007)
Thiên
Chúa làm người là để “phục hồi phẩm giá con người cách kỳ diệu” (lời nguyện
Thánh lễ Ban Ngày), để từ con người, cuộc phục hồi ấy phải tiến tới những lãnh
vực khác như gia đình, cộng đồng và toàn thế giới. Chính vì thế, ta không lấy làm lạ khi thấy lễ
Thánh Gia Thất được cử hành vào Chúa Nhật ngay sau lễ Giáng Sinh. Nếu Chúa Giê-su là con trưởng của một nhân loại
mới, thì Thánh Gia Thất cũng phải là khuôn mẫu cho các gia đình trong nhân loại. Lời Chúa trong Thánh lễ hôm nay sẽ giúp ta hiểu
thế nào là một gia đình trong đó có Thiên Chúa và con người sống chung với
nhau.
1.
Thiên Chúa tôn vinh bậc làm cha mẹ (bài
đọc Cựu Ước – Hc 3:2-6,12-14)
Con
Thiên Chúa xuống thế làm người và sống chức phận làm người con trong một gia
đình. Mục đích là để đổi mới quan hệ giữa
người con đối với bậc cha mẹ. Sự hiện diện
của Chúa Giê-su, người con của gia đình Na-da-rét, nói lên lối sống gương mẫu của
kẻ làm con cái. Đối với Thánh Gia Thất,
những lời sách Huấn ca không chỉ là những lời khuyên nhủ, nhưng nói lên phẩm
giá của cha mẹ Chúa Giê-su là Mẹ Ma-ri-a và thánh cả Giu-se. “Đức Chúa làm cho người cha được vẻ vang vì
con cái, cho người mẹ thêm uy quyền đối với các con”. Đời sống vâng lời và tôn kính của Chúa Giê-su
đối với cha mẹ Người chính là cách Thiên Chúa dùng để nhắc nhở các người con có
bổn phận phải làm sao cho cha mẹ mình “được vẻ vang và thêm uy quyền”. Thánh Giu-se và Mẹ Ma-ri-a đã thực sự được vẻ
vang và thêm uy quyền là vì “Hài Nhi ngày càng lớn lên, thêm vững mạnh, đầy
khôn ngoan, và hằng được ân nghĩa cùng Thiên Chúa” (Lc 2:40). Sau chuyến lên Giê-ru-sa-lem lúc Chúa Giê-su
lên mười hai tuổi, “Người đi xuống cùng với cha mẹ, trở về Na-da-rét và hằng
vâng phục các ngài… Còn Đức Giê-su, ngày càng khôn lớn, và được Thiên Chúa cũng
như mọi người thương mến” (Lc 2:51-52).
Tóm lại, qua Chúa Giê-su, Thiên Chúa muốn phục hồi chỗ đứng của những bậc
làm cha làm mẹ.
Đó
chẳng phải là điều ta luôn mong mỏi, nhất là trong những gia đình của xã hội
văn minh cấp tiến hôm nay hay sao? Con cái
không còn là một lý do để người cha được ngẩng mặt lên với đời nữa. Trái lại, con cái nhiều khi là một nỗi tủi nhục
cho cha mẹ, chẳng những chúng không đem lại niềm vui hay ủi an cho các ngài, mà
trái lại chỉ gây phiền lụy và lo lắng cho các ngài. Là gương mẫu cho các người con, Chúa Giê-su
đã sống vâng phục cha mẹ Người. Chắc chắn
ta phải kết luận rằng sở dĩ Chúa Giê-su luôn vâng phục thánh ý Chúa Cha là vì
Người đã học vâng phục Mẹ Ma-ri-a và thánh Giu-se trước. Sự vâng phục đã được rèn luyện dưới mái nhà
Na-da-rét và đạt tới cao độ khi Chúa Giê-su tỏ ý vâng phục trong Vườn Ô-liu và
trút hơi thở cuối cùng trên thập giá.
“Cha ơi, xin đừng làm theo ý con, mà xin theo ý Cha” (Lc 22:42), và “Lạy
Cha, con xin phó thác hồn con trong tay Cha” (Lc 23:46).
Trong
gia đình ngày nay, nhiều khi sự vâng phục của con cái đã bị bóp méo. Người ta coi đó là cách hạn chế sự phát triển
của con người. Sự bất vâng phục còn được
luật pháp hỗ trợ, thí dụ như tại Hoa-kỳ.
Nhiều đứa con chỉ dài cổ mong chóng đến 18 tuổi để được tự do, muốn làm
gì thì làm, một thứ tự do ấu trĩ nhất.
Thử hỏi có khi nào người ta dám đặt lại vấn đề vâng phục trong gia đình ở
Hoa-kỳ không? Chắc là không và thật đáng
buồn thay! Hãy nhìn về Thánh Gia Thất
Na-da-rét mà dạy và học bài học vâng phục của Chúa Giê-su.
2.
Đời sống mới của gia đình: sống
theo tinh thần của Chúa (bài đọc Tân Ước
– Cl 3:12-21)
Thánh
Phao-lô viết thư cho tín hữu Cô-lô-xê.
Ngài coi cộng đoàn Cô-lô-xê như một gia đình và đưa ra những lời khuyên
thực tế áp dụng cho đời sống cộng đoàn.
Tuy nhiên, để thực hiện được một gia đình cộng đoàn gương mẫu, mỗi Ki-tô
hữu cần phải thấm nhuần những nhân đức luân lý căn bản. Sau khi trình bày những nhân đức căn bản này,
thánh Phao-lô muốn họ đem những nhân đức ấy vào đời sống gia đình. Do đó, ngài đã chỉ thị cho mỗi phần tử trong
gia đình, từ cha mẹ, vợ chồng, con cái cho tới kẻ ăn người ở trong nhà, phải sống
sao để thể hiện được những đặc nét của một gia đình gồm “những người được Thiên
Chúa tuyển lựa, hiến thánh và yêu thương”. Những đặc nét đó là lòng thương cảm, nhân hậu,
khiêm nhu, hiền hòa và nhẫn nại, tất cả đều được biểu lộ qua những hành vi chịu
đựng, tha thứ và bác ái trong khi đối xử với nhau. Những nhân đức luân lý căn bản nói trên một
khi đã được thực hành trong đời sống gia đình, thì cũng giúp ta sống quan hệ tốt
đẹp hơn đối với Chúa. Một gia đình có được
những nhân đức trên sẽ thăng tiến đến mức độ có thể giúp đỡ khuyên bảo nhau sống
tốt lành và một lòng phụng sự Chúa.
Nếu
thực sự sống những nhân đức gia đình thì việc người vợ phục tùng chồng không phải
là cảnh chồng chúa vợ tôi mà là cách biểu lộ lòng yêu thương sâu xa, việc người
chồng yêu thương vợ không phải là tỏ ra uy quyền mà là cách nhận biết phẩm giá
và sự cao quý của vợ, việc con cái vâng lời cha mẹ không phải là sợ hãi cha mẹ
mà là cách nói lên lòng tôn kính và yêu mến đấng sinh thành. Nói tóm lại, nếu đem những nhân đức luân lý
căn bản vào đời sống gia đình, chúng sẽ thay đổi mọi quan hệ giữa những phần tử
thuộc gia đình phản ánh những đường nét và tinh thần của Thiên Chúa.
3.
Dù trong hoàn cảnh nào, gia đình luôn gắn bó với Chúa và với nhau (bài Tin Mừng – Mt 2:13-15.19-23)
Gia đình sống theo tinh thần của Chúa lúc nào cũng giữ được
mối hài hòa gắn bó, khi vui cũng như lúc buồn.
Bài Tin Mừng cho ta thấy Thánh Gia Thất đã ứng phó thế nào khi các ngài
gặp hoạn nạn. Sau khi các nhà chiêm tinh
phương Đông ra về, vua Hê-rô-đê nổi giận tìm cách giết Hài Nhi. Được sứ thần Chúa báo tin, thánh Giu-se “liền
trỗi dậy, và đang đêm, đưa Hài Nhi và mẹ Người trốn sang Ai-cập”. Trước một cuộc xuất hành xa xôi và không biết
ngày về, ta thường chuẩn bị kỹ càng. Dầu
vậy, Thánh Gia Thất làm gì có thời giờ để chuẩn bị. Điều cần thiết là phải làm sao bảo toàn tính
mạng cho Hài Nhi và mẹ Người. Ta có thể
tưởng tượng ra khung cảnh thánh Giu-se chuẩn bị cấp tốc cho một chuyến đi sang
tận Ai-cập. Chuẩn bị mấy đi nữa cũng chỉ
có hạn. Phương tiện chuyên chở căn bản
là con lừa. Đồ đạc phải là những đồ dùng
cần thiết nhất. Tuy nhiên trang bị tối cần
vẫn phải là lòng tin, hoàn toàn tín thác vào sự quan phòng của Thiên Chúa. Đây là điều thánh Giu-se hơn tất cả các gia
trưởng của mọi gia đình trong nhân loại.
Có tin tưởng Chúa, Người mới lập tức lên đường ngay giữa đêm khuya. Có tin tưởng Chúa, Người mới sẵn sàng làm một
cuộc hành trình hoàn toàn ngoài dự tính của Người, đến nơi xứ lạ quê người và
không rõ tương lai đi về đâu. Thánh
Giu-se là con người của đức tin, giống hệt như tổ phụ Người là Áp-ra-ham, lúc
nào cũng tìm cách làm theo thánh ý Thiên Chúa.
Có
thể lối diễn tả của thánh sử Mát-thêu làm cho ta có cảm nghĩ như thánh Giu-se
quá thụ động. Sứ thần Chúa bảo đi là Người
đi, bảo về là Người về. Nhưng chắc chắn
là thánh Giu-se không thụ động như vậy đâu.
Một đàng Người mau mắn làm theo ý Chúa, nhưng mặt khác Người cũng phải đối
phó với những khó khăn, phải xoay sở tháo vát để chu toàn bổn phận gia trưởng của
Người. Có lẽ chẳng ai dám “xúc phạm” đến
lòng khiêm tốn và đức tin mạnh mẽ của Người nên không dám kể ra những công khó
của Người trong đời sống của Thánh Gia Thất đấy thôi! Làm sao ta có thể kể hết công ơn của Đấng đã
hiến thân phụng sự trong kế hoạch của Thiên Chúa, “để ứng nghiệm lời Chúa phán
xưa qua miệng ngôn sứ: Ta đã gọi con Ta
ra khỏi Ai-cập… và Người sẽ được gọi là người Na-da-rét”.
4.
Sống Lời Chúa
Gia
đình là một đơn vị nòng cốt của nhân loại.
Nhân loại được thăng tiến hay không hoàn toàn do gia đình. Nhân loại được tăng số “như sao trời, như cát
biển” là nhờ gia đình. Nhân loại nên tốt
hay xấu cũng là do gia đình. Kể từ khi tội
lỗi xâm nhập vào nhân loại, nền tảng gia đình bị phá hoại, quan hệ gia đình bị
tổn thương, nên gia đình cần phải được phục hồi những gì đã bị tội lỗi tước bỏ. Sự hiện diện của Thiên Chúa giữa gia đình qua
việc Con Một Người xuống thế làm người con của gia đình Na-da-rét, Thiên Chúa
thi hành kế hoạch phục hồi ấy. Chúa
Giê-su giúp ta đặt lại vấn đề của bậc làm con cái. Thánh Giu-se nói lên gương mẫu của bậc gia
trưởng. Mẹ Ma-ri-a phản ánh những nhân đức
đầy tinh thần của Chúa mà Mẹ đã dạy dỗ rèn luyện cho Chúa Giê-su từ khi tấm bé
cho thành người “được Thiên Chúa cũng như mọi người thương mến”. Như vậy ta có thể ý thức được tầm mức quan trọng
của Thánh Gia Thất như thế nào trong kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa.
Suy nghĩ: Suy tư về sự hiệp nhất trong gia đình, thánh
Phao-lô viết: “Trên hết mọi đức tính,
anh em phải có lòng bác ái” (Cl 3:14). Vậy
tôi hiểu tại sao lòng bác ái lại quan trọng như thế? Từ lâu, nói đến bác ái là tôi thường nghĩ đó
là việc đối xử với người ngoài gia đình.
Lời thánh Phao-lô có giúp tôi phải đặt lại vấn đề bác ái không? Nếu có, tôi phải xét lại đời sống gia đình
tôi như thế nào và phải làm gì để mọi người trong gia đình biết sống bác ái đối
với nhau?
Cầu nguyện: Lạy Chúa, Chúa đã muốn đề cao Thánh Gia như tấm
gương xán lạn để mọi người bắt chước.
Xin làm cho chúng con cũng biết noi gương để ăn ở đúng lễ nghĩa gia
phong, sống đùm bọc lẫn nhau trong tình yêu mến, hầu được chung hưởng niềm an
vui vĩnh cửu trong nhà Chúa trên trời.
Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô, Chúa chúng con. A-men.
(Lời nguyện nhập lễ, lễ kính Thánh
Gia Thất).
Lm. Đaminh Trần Đình Nhi