Chúa Nhật 14 mùa Thường
niên
Chúa
Giê-su Ki-tô biểu lộ những đường nét khác nhau của dung mạo Thiên Chúa. Người là “hình ảnh Thiên Chúa vô hình” (Cl
1:15), cho nên đón nhận Người là ta có thể nhận ra được khuôn mặt đích thực của
Thiên Chúa. Các bài đọc hôm nay cho ta một
số phác họa về dung mạo Chúa Ki-tô qua hình ảnh Đức Vua Bình an đến với
Giê-ru-sa-lem và qua những lời Người nói về chính Người là Đấng mang lại sự an
nghỉ và sự sống. Suy niệm về việc đón nhận
Chúa Ki-tô, thánh Phao-lô trình bày một phương cách tốt nhất, đó là hãy sống
theo Thần Khí của Đức Ki-tô, tức là ta hãy “diệt trừ những hành vi của con người
ích kỷ” trong ta.
1.
Chúa Ki-tô là “Đức Vua khiêm tốn ngồi trên lưng lừa con” (bài đọc
Cựu Ước – Dcr 9:9-10)
Lúc
khải hoàn vào Giê-ru-sa-lem trước khi chấp nhận cuộc Thương Khó, Chúa Giê-su đã
sai mấy môn đệ đi tới nhà một người bạn và xin họ cho mượn một con lừa con để
Người cỡi vào thành thánh. Điều này đã
được ngôn sứ Da-ca-ri-a loan báo cuối thế kỷ 4 trước công nguyên. Vị ngôn sứ đang nhìn thấy một gương mặt vô
cùng độc đáo của Thiên Chúa đến với dân Ít-ra-en: “Kìa Đức Vua của ngươi đang đến với
ngươi: Người là Đấng Chính Trực, Đấng
Toàn Thắng, khiêm tốn ngồi trên lưng lừa, một con lừa con vẫn còn theo mẹ” (Dcr
9:9). Đức Vua của Ít-ra-en không phải là
vị anh hùng ngồi trên lưng ngựa đánh đông dẹp bắc, mà là Đấng Chính Trực và
Toàn Thắng cỡi lừa vào thành thánh Giê-ru-sa-lem. Ngựa biểu tượng cho chiến tranh và cho kiêu
căng, còn lừa biểu tượng cho hòa bình và cho khiêm nhu. Mục đích Đức Vua đến với Ít-ra-en là dẹp tan
mọi thứ chiến tranh, để thiết lập một vương quốc bình an. Sẽ không còn ngăn cách, thù địch giữa con người
với con người và giữa con người với Thiên Chúa.
Mọi hậu quả ấy đều do tội lỗi gây nên và chúng sẽ bị quét sạch dần dần. Rõ ràng là Đức Vua đang đến, mở đầu cho một
cuộc chiến tay đôi giữa quyền lực của Thiên Chúa và ảnh hưởng của tội lỗi, giữa
sự sống và sự chết. Viễn tượng chiến thắng
của Đức Vua là điều phải xảy đến: “Người
thống trị từ biển này qua biển nọ, từ sông Cả đến tận cùng cõi đất” (Dcr 9:10).
Nhưng
Đức Vua ấy là ai và Ngài đã làm gì để chiến thắng trong cuộc chiến cam go
đó? Hình ảnh Đức Vua ấy chính là Chúa
Ki-tô trong cung cách khiêm tốn ngồi trên lưng lừa. Chúa Ki-tô đã lấy chính đức khiêm nhượng và
vâng phục để chiến thắng tội lỗi và sự chết.
Thánh Phao-lô đã dùng một so sánh nổi tiếng để tôn vinh chiến thắng của
Chúa Ki-tô. “Nếu chỉ vì một người, một
người duy nhất sa ngã, mà sự chết đã thống trị, thì điều Thiên Chúa làm qua một
người duy nhất là Đức Giê-su Ki-tô, lại còn lớn lao hơn biết mấy” (Rm
5:17). Về sự khiêm nhượng của Chúa
Ki-tô, ta đã được nghe thánh Phao-lô nói đến nhiều lần, nhất là với bài thánh
thi trong thư Phi-líp-phê 2:6-11. Sự
kiêu căng và bất tuân của A-đam đã mang lại hậu quả khốc liệt cho nhân loại,
thì sự khiêm nhượng và vâng phục của Chúa Ki-tô đã sinh ân phúc lớn lao là sự
công chính và chiến thắng tội lỗi. Người
quả thực là “Đấng Chính Trực” và “Đấng Toàn Thắng” như lời ngôn sứ Da-ca-ri- đã
báo trước.
2.
Chúa Ki-tô có lòng hiền hậu và khiêm nhường (bài Tin Mừng – Mt 11:25-30)
Sứ mệnh của Chúa Ki-tô là được sai đến với những
kẻ nghèo hèn, bệnh tật tâm hồn lẫn thể xác, bị áp bức giam cầm (Lc 4:18-19), hoặc
như trong lời cầu nguyện tạ ơn của Người, là Người đến để mặc khải mầu nhiệm Nước
Trời cho “những người bé mọn” (Mt 11:25).
Những người bé mọn là hình ảnh ám chỉ tất cả những ai mang tinh thần đơn
sơ như trẻ em, hoàn toàn tín thác và đặt mình dưới sự dẫn dắt của “Mô-sê Mới”
là Chúa Giê-su, để Người dẫn họ về nhà Cha.
Họ cũng là những người “đang vất vả mang gánh nặng nề” cần được nghỉ
ngơi bồi dưỡng. Những người ấy trước hết
là những người Do-thái đang sống dưới ách nặng nề của Lề Luật và những giải
thích nặng phần hình thức do các kinh sư và Pha-ri-sêu. Nhưng cũng có thể là tất cả những người đang
quằn quại dưới sức ép của kiếp sống con người.
Giờ đây, Chúa Giê-su đưa ra lời mời gọi và bảo đảm Người sẽ cho họ một
đáp số về những “vất vả cuộc đời”: “Tất
cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ
ngơi bồi dưỡng” (Mt 11:28). Lời mời gọi
của Chúa thẳng thắn và chắc chắn, nói lên cốt lõi sứ mệnh của Người. Những người vỗ ngực là “bậc khôn ngoan thông
thái” của thế gian đâu cần đến Thiên Chúa và mầu nhiệm Nước Trời. Họ tin một mình họ có đủ khả năng quyết định
vận mệnh cho mình, tự giải quyết và khắc phục những khó khăn cuộc đời bằng những
phương tiện khoa học, triết học và xã hội, chứ không cần đến tôn giáo hoặc đức
tin. Nhưng đối với những “kẻ nghèo hèn”
(anawim) của Đức Chúa thì khác. Họ biết
mình không thể làm được gì nếu không có Thiên Chúa ở cùng. Do đó, họ cần có một Đấng gọi là Em-ma-nu-en,
Thiên Chúa-ở-cùng-chúng ta. Đấng ấy đã
được ngôn sứ Da-ca-ri-a báo trước và Người đã đến, đã mời gọi toàn thể nhân loại
tới với Người. Vậy ta hãy xem Người sẽ
cho ta được “nghỉ ngơi bồi dưỡng” như thế nào.
Trước
hết, Chúa Giê-su dạy: “Anh em hãy mang lấy
ách của tôi”. Kể cũng lạ đời! Đã mang lấy ách thì làm sao nghỉ ngơi được. Người Do-thái khổ sở vì cái “ách” của Lể Luật,
đó là một thí dụ cụ thể. Nhưng Chúa
Giê-su khẳng định: “Ách của tôi êm ái,
và gánh của tôi nhẹ nhàng”. Đúng vậy,
“ách” của Chúa Giê-su là luật yêu thương, luật mến Chúa yêu người. Nếu tình yêu đã trở nên động lực đích thực
cho hành động, thì thực hiện hành động không còn gây khó chịu khổ đau cho
ta. Vì yêu thương con cái, cha mẹ dù có
vất vả hy sinh cũng không thấy đó là một cái ách nặng nề nữa. Vì yêu thương, Chúa Giê-su đã vui lòng chấp
nhận cái chết nhục nhã trên thập giá để cứu độ ta. Do đó, ta mang lấy ách của Chúa Giê-su có
nghĩa là ta sống luật yêu thương Người đã dạy và đã nêu gương.
Tiếp
đến, Chúa Giê-su mời gọi ta hãy học với Người.
Học với Chúa Giê-su chính là làm môn đệ Người. Có biết bao điều ta có thể học nơi Chúa. Nhưng ở đây Người nhấn mạnh đến lòng hiền hậu
và khiêm nhượng. Đó là kết quả của một
tình bác ái đích thực, như thánh Phao-lô đã đề cập đến trong bài ca đức mến (1
Cr 12:31-13:13). Chiêm ngưỡng lòng hiền
hậu và khiêm nhượng của Chúa Giê-su là một đề tài vô cùng phong phú và bất tận. Tất cả cuộc đời Chúa Giê-su biểu lộ những đức
tính này qua mối quan hệ giữa Người với tha nhân và với Thiên Chúa. Ta khó nhận ra lòng nhân hậu của Thiên Chúa
qua những suy luận tu đức hay thần học, nhưng ta thấy ngay được Thiên Chúa nhân
hậu như thế nào qua cách đối xử của Chúa Ki-tô với mọi người, ngay cả đối với
những kẻ thù của Người. Một Ki-tô hữu
đích thực không thể đối xử với anh chị em theo triết lý “người đối người khác
gì loài lang sói” (homo homini lupus), nhưng phải quảng đại, tha thứ đối với
anh chị em. Chẳng lạ gì khi kết thúc bài
dạy về kinh Lạy Cha, Chúa Giê-su đã nhấn mạnh đến việc tha thứ cho anh em. Đó chính là một nghĩa cử nảy sinh từ lòng hiền
hậu và khiêm nhượng vậy.
3.
Noi gương sống của Chúa Giê-su, ta phải sống theo Thần Khí của Người (bài đọc Tân Ước – Rm 8:9.11-13)
Đáp lời mời gọi hãy đến và học nơi Chúa Giê-su, tức là làm
môn đệ Chúa, thánh Phao-lô cho ta một nguyên tắc hành động: ta phải có Thần Khí của Chúa Ki-tô thì mới diệt
trừ được những hành vi ích kỷ nơi ta.
Đúng vậy, Chúa Giê-su đã cho ta thấy Thần Khí hoặc Tinh Thần của Người
là lòng hiền hậu và khiêm nhượng. Nếu
lòng hiền hậu và khiêm nhượng là kết quả của đức mến đích thực thì ngược lại những
hành vi ích kỷ là hậu quả của lòng ghen tương ganh ghét. Cũng vậy, đức mến đem lại sự sống, còn ghen
ghét đưa đến cái chết. Thần Khí của Chúa
Ki-tô đã làm cho Người sống lại từ kẻ chết và trở thành sự sống muôn đời cho tất
cả những ai sống theo Thần Khí của Người.
Nói khác đi, lòng hiền hậu và khiêm nhượng của Chúa Ki-tô đã cứu độ nhân
loại và phục hồi cho họ địa vị làm con cái Chúa để được sống muôn đời. Diệt trừ những hành vi của con người ích kỷ
nghĩa là thay vì chỉ sống cho ta, coi ta là cái rốn vũ trụ và không màng tới những
người anh chị em “đang vất vả mang gánh nặng nề”, thì ta sẽ quan tâm đến họ hơn
và lo lắng chăm sóc cho họ.
Đặc
biệt trong thư gửi tín hữu Ga-lát, thánh Tông đồ đã phân tích rõ hai lối sống: sống theo tính xác thịt và sống theo Thần
Khí. Có một danh sách dài gồm những việc
do tính xác thịt (Gl 5:19-21) và danh sách những đức tính của Thần Khí mà thánh
Augustinô đã gói ghém trong một câu: Cứ
yêu mến đi, rồi bạn hãy làm những điều bạn muốn. Để kết luận, thánh Phao-lô Tông đồ chỉ cho ta
một hướng đi: “Nếu chúng ta sống nhờ Thần
Khí, thì cũng hãy nhờ Thần Khí mà tiến bước” (Gl 5:25). Và tiến bước ấy sẽ đưa ta tới sự viên mãn để
được chung phần gia nghiệp với Chúa Ki-tô.
4.
Sống Lời Chúa
Giữa
cuộc sống khổ ải trần gian này, nhiều khi ta quá mệt mỏi đến độ muốn buông xuôi
hoặc đi tìm những thú vui trần gian để khỏa lấp. Nếu cứ tiếp tục như thế là ta đang đi vào con
đường hư mất. Nhưng Chúa Giê-su đã đến với
ta để giúp ta nhận biết sống hiền hậu và khiêm nhường là kết quả của một tình
yêu đích thực. Ta đến với Chúa để học
cách sống của Người, để rồi ta thực hành bài học ấy khi ta đối xử hiền hậu và
khiêm nhường đối với anh chị em.
Suy nghĩ: Khi đối xử với anh chị em, tôi đã thiếu lòng
hiền hậu và khiêm nhường trong lời nói và việc làm như thế nào? Một vài thí dụ cụ thể nào giúp tôi nhận ra
mình ác độc và kiêu căng đối với anh chị em?
Hiền hậu và khiêm nhường có phải là đặc nét của căn tính Ki-tô hữu
không? Tại sao?
Cầu nguyện: Lạy Chúa, nhờ Con Chúa hạ mình xuống, Chúa đã
nâng loài người sa ngã lên; xin rộng ban
cho các tín hữu Chúa niềm vui thánh thiện này:
Chúa đã thương cứu họ ra khỏi vòng nô lệ tội lỗi, thì xin cũng cho họ được
hưởng phúc trường sinh. Nhờ Đức Ki-tô,
Chúa chúng con. A-men. (Lời
nguyện Nhập lễ, Chúa Nhật 14 mùa Thường niên)
Lm.
Đaminh Trần Đình Nhi