Chúa Nhật IV Phục Sinh
A
Tôi Là Cửa
Gio 10:1-10:
1 "Quả thật, quả thật, Ta bảo các ngươi: kẻ nào không ngang qua của mà vào
ràn chiên, nhưng từ chỗ nào khác, thì nó là trộm là cướp. 2 Còn kẻ nào ngang
qua cửa mà vào, kẻ đó mới là người chăn chiên. 3 Kẻ ấy được người giữ cửa mở
của cho, và chiên nghe tiếng kẻ ấy. Và chiên của mình, kẻ ấy gọi tên từng con,
và dẫn chúng đi. 4 Khi đã xua chiên của mình tất cả ra rồi, thì kẻ ấy đi trước
chúng, và chiên theo sau kẻ ấy, vì chúng nhận biết tiếng kẻ ấy. 5 Chúng đã
không theo sau người lạ, nhưng chúng trốn tránh người ấy vì chúng không nhận
biết tiếng những người xa lạ!" 6 Ðức Yêsu nói dụ ngôn đó cùng họ, mà họ
không hiểu Ngài nói những gì với họ.
7 Vậy Ðức
Yêsu lại nói:"Quả thật, quả thật, Ta bảo các ngươi: Cửa ràn chiên, chính
là Ta! 8 Bao nhiêu kẻ đã đến trước Ta, hết thảy đều là trộm là cướp; nhưng
chiên đã không nghe chúng. 9 Cửa vào, chính là Ta! Ai ngang qua Ta mà vào thì
sẽ được cứu; nó sẽ vào, sẽ ra, và sẽ gặp được lương thực. 10 Trộm có đến, thì
chỉ để đánh cắp, sát hại và hủy diệt. Ta đã đến, là để chúng được có sự sống,
và có một cách dồi dào.
Đoạn 10:1-10 là phần đầu
của chương 10 chủ yếu bàn về chân dung của Chúa Giêsu-Mục Tử Tốt Lành và tương
quan của Mục Tử nầy với đàn chiên. Vào cuối chương 9, người mù sau khi đã nghe
tiếng Chúa Giêsu và biết Người là ai, đã tin vào Người và trở nên môn đệ của Người
(9:37). Trong khi đó, người Pharisêô nghĩ rằng Chúa Giêsu là một “người tội lỗi”
(9:24); bởi đó, họ đã không tin vào Người và trở nên mù lòa. Người mù bẩm sinh đã
không đi theo họ. Trong chương 10, Chúa Giêsu trình bày Người là “Cửa” tương phản
với chân dung của những người “trộm và cướp”. Công việc của Người cũng tương phản
với hành động của họ trong tương quan với đàn chiên. Và đàn chiên sẽ nhận ra Mục
tử của chúng và đi theo Người, thay vì theo những người “trộm cướp”.
Có thể phân chia đoạn
tin mừng nầy thành hai phần, và mỗi phần đều bắt đầu bằng câu “Quả thật, quả thật,
Tôi nói với anh em” (c. 1 và 7): - Dụ ngôn về Người Mục tử (10:1-6); - Giải thích
về hình ảnh Người Mục tử (10:7-10).
Dụ ngôn về Người Mục tử (10:1-6)
Đoạn 10:1-6 có thể phân chia nhỏ lại như sau:
- Phân biệt người chăn chiên và trộm cướp: qua cửa mà vào (cc. 1-3a); - Thái độ
của đàn chiên đối với họ (cc. 3b-5); Phản ứng của người nghe dụ ngôn (c. 6).
Cụm từ “Quả thật, quả
thật, Tôi nói với anh em” được dùng để dẫn vào cách long trọng một tuyên bố. Tuyên
bố đầu tiên là qua cách đến với đàn chiên, người ta có thể phân biệt ai là người
chăn chiên và ai là người trộm cướp. Người trộm cướp không qua cửa mà vào chuồng
chiên (c. 1). Còn người chăn chiên thì qua cửa, lối bình thường, mà vào với đàn
chiên (c. 2). Thyra, “cửa” chỉ bất cứ loại cửa cổng, cửa ra vào. Chuồng chiên có
nhiều loại. Vào thời đó, chuồng chiên thường là một khoảnh đất, được vây quanh
bởi những viên đá chất lên thành bức tường. Cửa chuồng chiên là lối ra vào giữa
hàng rào bằng đá ấy.
Thái độ và tương quan của
chiên đối với người chăn chiên và người trộm cướp (cc. 3b-5). Sau khi phân biệt
ai là người chăn chiên thật, Gioan nói đến thái độ của chiên đối với những người
nầy. Đối với người chăn chiên, chiên nghe tiếng người nầy (c. 3) và đi theo (c.
4b); trong khi đó, chiên không đi theo người trộm cướp vì chiên không nhận biết
tiếng của người nầy (c. 5). “Giọng nói/tiếng” của người chăn chiên rất quan trọng.
Qua tiếng nói, người chăn chiên có thể thông tin và thông hiệp với chiên. “Tiếng”
của chàng rể gọi lên niềm vui nơi bạn bè của chàng (3:29). “Nghe tiếng” dẫn đến
sự sống. Những người nghe tiếng Chúa được sống (5:25; 11:43). Do đó, nghe tiếng
gợi lên lòng tin tưởng và kèm theo hành động là đi theo. Người mù đã nghe tiếng
của Chúa Giêsu, trong khi các người Pharisêô từ chối (x. 9:27). Không nghe tiếng
có nghĩa là từ chối tin vào và không hành động theo (x. 5:38). Việc “nghe tiếng”
nầy còn được tiếp tục bàn đến trong các câu 10:16.27; 18:37). Hơn nữa, việc gọi
được “tên từng con chiên” là điểm phân biệt căn bản giữa người chăn chiên và người
trộm cướp. Người chăn chiên biết tên từng con chiên. “Tên từng người” chính là
người ấy, không nhầm lẫn với ai khác. “Gọi” được tên là biết người ấy (x. 1:48).
Khi người chăn chiên gọi tên từng con chiên có nghĩa là đã biết tường tận từng
con một. Việc làm của người chăn chiên là mở cửa. Động từ “mở”, anoigō, được dùng rất nhiều lần trong chương
9. Chúa Giêsu đã mở mắt người mù (9:7.14.17.21.26.30.32). Mở để cho người mù thấy
ánh sáng. Người chăn chiên mở cửa để dẫn chiên đến đồng cỏ xanh (c. 9). Việc làm
của người trộm cướp sẽ được bàn ở câu 10:10.
Ghi nhận của thánh sử
(c. 6). Có một sự tương tự giữa sự ghi nhận nầy và sự mù loà không hay biết của
người Pharisêô (9:40-41). Trong đoạn trước, người Pharisêô có mắt sáng nhưng không
thấy. Ở đây họ nghe, nhưng không hiểu; cũng là điếc vậy.
Giải thích về hình ảnh Người Mục tử (10:7-10)
Trong đoạn nầy Chúa Giêsu
trình bày chân dung tương phản của cả người chăn chiên và người trộm cướp, cũng
như công việc của họ liên quan đến đoàn chiên. Người chăn chiên được nói đến
nhiều hơn.
Sau công thức long trọng,
một tuyên bố về người chăn chiên: “Tôi là cửa của các con chiên” (c. 7), “Tôi là
cửa” (c. 9). Xem thêm ở các câu 11 và 14. Câu “cửa của các con chiên” cần nhiều
giải thích. Đây là sở hữu cách chỉ hướng và mục đích. Do đó có thể dịch mang tính
giải tthích là “cửa hướng về các con
chiên”, và “cửa cho các con chiên”. Câu
“Tôi là cửa của các con chiên” đều bao hàm cả hai ý nghĩa nầy. “Cửa hướng về các con chiên” nghĩa là Cửa nầy
đóng kín với ai đứng ngoài cửa, và mở ra cho ai đứng bên trong. Như thế, Cửa giữ
đàn chiên khỏi trộm cướp (10:1-2). Và chiên nào qua Cửa nầy mà vào bên trong thì
được che chở an toàn, “được cứu”; đó là ý nghĩa của động từ sozō, “giữ khỏi bị tổn hại”, “cứu”. “Cửa
cho các con chiên” nghĩa là Cửa nầy khi
mở ra, mở ra ngay hướng đồng cỏ xanh. Chiên đi ra ngoài và tìm thấy ngay nguồn sống
(c. 3-4.9). Đó chính là sự sống, zōe,
mà Chúa Giêsu mang tới khi Người đến thế gian nầy (c. 10). Như thế, Chúa Giêsu
vừa là Cửa, vừa là Người Mục tử. Sự sống và sự an toàn của chiên đều lệ thuộc vào
Người.
Chúa Giêsu là Cửa, và các
người chăn chiên khác muốn đến với phải đi qua Người. Nếu đi lối khác, họ là người
trộm cướp (c. 1). Ở đây Người khẳng định là những người đến “trước Người” đều là
trộm cướp. Chữ kheptō, “trộm cướp” ngoài
những lần ở đây được dùng trong 12:6 để chỉ Giuđa Iscariốt. Theo mạch văn, trộm
cướp là người đến với chiên không qua lối chính thức là cửa. Họ là những người đến
mà chiên không mong đợi, và cả người chăn chiên. Hơn nữa, “trộm cướp” trong
12:6, chỉ Giuđa Iscariốt, được hiểu là Giuđa lợi dụng vị thế của mình mà kiếm lợi
cho bản thân. Nếu hiểu chữ “trộm cướp” như thế là đúng, có thể đi đến kết luận
là “những người đến trước” Chúa Giêsu, không thể là các tổ phụ, các vua hay các
ngôn sứ của Thiên Chúa sai đến, mà là những người cứu thế giả giữa dân do thái,
và ở đây là các Pharisêô và kinh sư. Những người nầy liên tục tranh luận với Chúa
Giêsu. Họ không tin vào Người; nghĩa là không qua cửa của Chúa Giêsu. Do đó, họ
không phải là các lãnh đạo do Thiên Chúa gởi đến (x. 7:48; 9:16). Họ đã lạm dụng
quyền bính mà hướng dẫn dân chúng cách mù lòa (x. 9:40). Hành động của họ là giết,
thyō, và hủy diệt, oppólymi; đối nghịch việc ban sự sống của
Người Mục tử (c. 10; x. 3:16; 3:39; 17:12; 18:9).
Chúa Giêsu là Cửa duy
nhất. Ai muốn đến với Chúa Cha, nguồn mạch sự sống duy nhất, phải đi ngang qua
Người (14:6). Người cũng chính là sự sống. Người đến trần gian để đàn chiên của
Người được sự sống dồi dào.
Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến