Chúa Nhật III Mùa Chay A

Nước Vọt Đến Sự Sống Đời Đời

 

Gio 4:7-15: 7 Có một phụ nữ người Samari đến kín nước. Ðức Yêsu nói với bà ấy: "Cho tôi uống với". 8 Vì môn đồ Ngài đã vào thành mua thức ăn.9 Người phụ nữ Samari ấy mới nói với Ngài: "Làm sao ông là Do Thái mà lại xin uống với tôi là đàn bà Samari?", vì Do Thái không được chung đụng với người Samari. 10 Ðức Yêsu đáp lại và bảo bà ấy: "Nếu ngươi biết được ơn của Thiên Chúa, và ai là người nói với ngươi: Cho tôi uống với, thì chính ngươi đã khẩn xin và ngài sẽ cho nước sinh sống". 11 Bà ấy nói với Ngài: "Thưa Ngài, gàu Ngài không có, giếng thì lại sâu, vậy Ngài lấy đâu cho có nước sinh sống? 12 Dễ chừng Ngài lại lớn hơn Yacob cha chúng tôi, người đã cho chúng tôi giếng này, và người cũng uống nước đây nữa, cùng với con cái và gia súc của người?" 13 Ðức Yêsu đáp lại bà ấy: "Phàm ai uống nước này sẽ còn khát lại; 14 Nhưng kẻ nào một lần đã uống nước Ta sẽ ban, thì đời đời sẽ không khát nữa; nhưng nước Ta sẽ ban cho nó sẽ nên mạch suối trong nó có nước vọt đến sự sống đời đời". 15 Người phụ nữ mới nói với Ngài: "Thưa Ngài, xin Ngài ban cho tôi thứ nước ấy, để tôi hết khát và khỏi phải đến đây kín nước".

 

Tin mừng của Chúa nhật hôm nay gồm hầu như cả chương 4 (4:5-42). Chương 4 bắt đầu một khung cảnh và chủ đề mới. Chúa Giêsu rời Giuđêa đi về lại Galilêa và Người đi ngang qua Samaria (4:3), nơi đây xảy ra câu chuyện giữa Chúa Giêsu và người phụ nữ. Khung cảnh gần hơn là bên giếng nước Giacóp. Chủ đề chính: - Chúa Giêsu và người phụ nữ Samaria: Mở đầu cuộc đối thoại (4:1-8); - Nước hằng sống (4:9-15); - Việc phụng thờ đích thật (4:16-26); - Mùa gặt (4:27-38); - Kết quả của việc truyền giáo tại Galilêa và Samaria (4:39-45).

 

Đoạn 4:9-15 3 gồm 3 lần trao đổi giữa Chúa Giêsu và người phụ nữ: 7 và 9; 10-12; 13-15. Phần cuối của câu 9 là ghi chú của thánh sử. Xét về mặt ngữ nghĩa các trao đổi nầy liên hệ với nhau qua chủ đề nước. Cụm từ “đến múc nước” (4:7 và 15 ) đóng khung đoạn nầy.

 

Xin nước uống (4:7-9)

 

 Chúa Giêsu xin người phụ nữ nước uống, “Cho tôi uống với” (c. 7). Chúa Giêsu khát nước sau hành trình dài. Điều nầy được xác nhận qua việc các môn đệ đi vào thành để mua thức ăn (9:4-8). Người lấy việc khát nước của mình để bắt đầu cuộc trao đổi về nước hằng sống (x. 4:10). Động từ “cho” dùng nhiều lần trong đoạn nầy (cc. 10.12.14 [2x].15). Cuộc trao đổi được đóng khung bởi lời mở đầu “cho tôi uống với” của Chúa Giêsu (c. 10) và kết thúc với lời xin ngược lại từ phía người phụ nữ “cho tôi nước nầy” (c. 15).

 

Người phụ nữ nầy chỉ hiểu theo nghĩa đen lời xin nước của Chúa Giêsu (c. 9). Lời xin nước của Chúa Giêsu bị bỏ ngõ, vì bà không trả lời trực tiếp lời xin nước của Chúa Giêsu và nói đến sự ngăn cách giữa hai người do thuộc hai miền khác nhau. Bà là người miền Samaria, trong khi Chúa Giêsu là người miền Giuđêa. Thánh sử cho lời giải thích về điều nầy (c. 9; Lc 10:25-37). Thời ấy, người do thái không chỉ tránh gặp người thuộc miền Samaria, mà cả tránh không nói chuyện với phụ nữ nơi công cộng. Phản ứng của các môn đệ khi thấy Chúa Giêsu nói chuyện với người phụ nữ Samaria cho thấy điều nầy (4:27). Ngay cả người phụ nữ cũng thắc mắc là có thể có một cuộc trao đổi như thế giữa bà và Chúa Giêsu hay không. Vào thời xưa giếng nước là thường là nơi gặp gỡ (x. Kn 24:11.15.17; 29:2-12).

 

Ban nước uống (4:10-12)

 

Trong lần trao đổi tiếp theo nầy, chủ đề nước chuyển sang khía cạnh khác, tập trung vào Chúa Giêsu là nước hằng sống, ân huệ của Thiên Chúa, và Người cũng là Đấng ban nước ấy cho những ai xin Người  (c. 10). “Ân huệ của Thiên Chúa” (c. 10) nghĩa là ơn do Thiên Chúa ban cho. Ân huệ ấy được đồng hoá với Chúa Giêsu. Mệnh đề điều kiện “Nếu bà biết…” vừa có tính cách điều kiện là phải biết, vừa có tính cách mời gọi. Điều kiện tiên quyết là phải biết Người là ai, và khi cầu xin thì Người sẽ sẵn sàng ban nước hằng sống ấy. Ở đây Chúa Giêsu không dùng cách nói trực tiếp Người là nước hằng sống, dù Người gọi mình là “Tôi là Bánh hằng sống” (6:51). Nước gắn liền với sự sống như bánh vậy (6:35).

 

Người phụ nữ không hiểu ngôn ngữ của Chúa Giêsu (c. 11); như trường hợp của Nicôđêmô (3:3). Suy nghĩ của bà bị kẹt trong thế giới thể lý và tự nhiên nầy. Bà không hiểu làm sao Chúa Giêsu có thể: - có nước mà không cần đến cái gàu để múc nước, trong khi giếng lại sâu; - lớn hơn tổ phụ Giacóp, người đã truyền lại cho họ giếng nước nầy (Kn 49:22). Pothen, “do đâu” (c. 11) là một trong những từ then chốt của Gioan. Khi đối diện với Chúa Giêsu, nhiều người không hiểu do đâu mà đến những hiểu biết của Chúa Giêsu (1:48); những việc Người làm (2:9). Cũng thế người phụ nữ Samaria nầy không hiểu bởi đâu Người có thể có nước để ban cho (4:11). Trọng tâm của những thắc mắc “pothen” nầy là con người không hiểu nguồn gốc của Người (7:27; 8:14; 9:30; 19:9).

 

Người phụ nữ Samaria đưa ra một so sánh giữa Chúa Giêsu và tổ phụ Giacóp (c. 12). Câu hỏi của bà “Không lẽ ông cao trọng hơn Giacóp…?” tương tự câu hỏi người do thái đặt cho Chúa Giêsu “Không lẽ ông cao trọng hơn Abraham…?” (8:53). Bà đặt vấn đề là ai cao trọng hơn ai. Giacóp đã để lại giếng nước. Chúa Giêsu có thể hơn thế không? Chắc chắn là Người cao trọng hơn Giacóp, cũng như Người tuyên bố là cao trọng hơn Abraham, vì Người có trước Abraham (8:58). Cũng vậy Người cao trọng hơn Giacóp, vì Người ban “nước không hề khát” (c. 14) chứ không như nước tự nhiên lấy lên từ giếng của Giacóp. Điều nầy sẽ được nói đến trong những câu tiếp theo.

 

Nuớc uống ban sự sống (4:13-15)

 

Trong lời trao đổi sau cùng, Chúa Giêsu không trả lời những điều liên quan đến gàu nước, và tổ phụ Giacóp. Người giải thích phẩm tính của nước do Người ban bằng một so sánh giữa “nước nầy”, nghĩa là nước tự nhiên lấy lên từ giếng (c. 13) và “nước do Người ban cho” (c. 14). Uống “nước nầy” sẽ lại khát. Uống nước Người ban sẽ không bao giờ khát nữa. Chúa Giêsu tiếp tục mời gọi đến với Người để giãn khát, “ai khát hãy đến cùng Tôi và uống” (7:37; x. 6:35.51). Chúa Giêsu nói đến “mạch nước” (c. 14b), nhắc nhớ đến giếng nước tự nhiên (4:6). Trong Cựu ước, pēgē hydatos, “mạch nước” ám chỉ Thiên Chúa (x. Tv 36:9; Giêr. 2:13; 17:13), cũng thế trong sách Khải huyền, nước hằng sống phát xuất từ ngai của Thiên Chúa và Con Chiên (Kh 22:1; 7:17). Hallomai, có nghĩa là “phun lên” (mạch nước), và “nhảy lên”. Động từ nầy chỉ được dùng một lần duy nhất ở đây trong Gioan. Trong Công vụ Tông đồ, động từ nầy dùng cho hai người què (3:18; 14:10). Họ nhảy nhót lên sau khi đã được chữa lành. Có thể hiểu là việc làm cho mạch nước phun vọt lên, cũng như việc làm cho người què nhảy nhót được là do Thiên Chúa. Người hành động trong nước hằng sống, cũng như hành động trong việc chữa lành của các tông đồ. Và mục đích của hành động nầy là đưa đến “sự sống đời đời”. Vậy vì nước hằng sống nầy chính là Chúa Giêsu, khi ai lãnh nhận Người, Người sẽ hành động trong họ và đưa người ấy vào sự sống đời đời. Chúa Giêsu chính là sự sống (1:4; 14:6), nên tất cả những gì Người ban đều mang lại sự sống cho người lãnh nhận: nước (4:14), lương thực (6:27), bánh (6:33.35.48.51), thịt và máu của Người (6:53-54). 

 

Thêm một lần nữa người phụ nữ nầy không hiểu lời Chúa Giêsu (c. 15). Bà chỉ nghĩ đến nhu cầu cụ thể hằng ngày “Thưa Thầy, xin cho tôi nước ấy để tôi khỏi phải đến đây múc nữa” (c. 15). Có thể bà nghĩ là Chúa Giêsu có một thứ nước phù phép, và bà xin thứ nước ấy. Cuộc đối thoại chẳng làm cho bà hiểu hơn. Tuy nhiên đó là cơ hội Người nói về nước hằng sống. Trong các phần tiếp theo, Chúa Giêsu sẽ phá vỡ sự vô tri nầy và sẽ làm cho bà nhận biết Người là ai.

 

Lời xin nước uống của Chúa Giêsu ám chỉ đến sự cứu độ của con người. Người sẽ lập lại lời tương tự trên thánh giá, “Ta khát” (19:28). Người khát khao người phụ nữ nầy được cứu độ; qua bà như biểu tượng, là cả dân miền Samaria và mọi người. Chúng ta khát khao được cứu độ?

 

Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến


Về Trang Suy Niệm Chủ Nhật Năm A