ĐỨC
GIÊSU ĐI TRÊN MẶT BIỂN HỒ
(Mátthêu 14,22-33 – CN
XIX - A)
1.- Ngữ cảnh
Chúng ta nên đặt đoạn
văn này vào trong ngữ cảnh của nó là toàn khối từ cuối chương 13 đến chương 17
của Tin Mừng Mtthu. Đọc khối này, chúng ta nhận ra những ý tưởng quan
trọng:
1) Chương 13 cho hiểu
rằng Nước Trời đang tăng trưởng và bất cứ người nào hiểu rằng mình được kêu gọi
đi vào đấy, thì phải lựa chọn dứt khoát. Kể từ nay, chúng ta thấy cộng đoàn của
Đức Giêsu xuất hiện rõ nét dần, được củng cố dần, mở ra dần với đức tin (x.
14,33; 16,16), đào sâu dần mầu nhiệm Đức Giêsu. Chính là nơi cộng đoàn này mà
người ta nhận ra Nước Thiên Chúa đang hiện diện và ngày càng rõ nét. Chúng ta
có thể đặt tên cho toàn khối ch. 13-17 này: “Tiến tới việc loan báo Giáo
Hội”hoặc “Giáo Hội, hoa quả đầu mùa của Nước Trời” hoặc “Hành
trình đức tin trong Giáo hội”, bởi vì qua các chương này, tác giả Mt
đề cập đến việc đào tạo tiệm tiến cộng đoàn Giáo Hội.
2) Khối này mở ra với
việc dân Nadarét từ khước Đức Giêsu (13,53-58) và kết thúc với câu chuyện cho
thấy Phêrô được Đức Giêsu cho gắn bó với Người (17,24-27). Xuất hiện gương mặt
đe dọa của vua Hêrôđê, người đã giết Gioan Tẩy Giả (14,13). Nhóm Pharisêu ngày
càng tỏ rõ thái độ hiềm thù đối với Đức Giêsu (15,1tt.12; 16,1.4). Những thái
độ đe dọa thù nghịch khiến Đức Giêsu lo sợ, Người rút lui về những nơi an toàn
hơn hoặc tách biệt hơn (14,13; 15,21).
3) Toàn khối này được xây dựng quanh hai điểm: đức
tin và hiểu biết:
- Tác giả nói đến những
người kém tin trong câu truyện Phêrô đi trên mặt nước (14,31) và câu
truyện các môn đệ bàn tán về việc quên bánh (16,8). Trong câu truyện Đức Giêsu
chữa đứa trẻ bị kinh phong, có một lời than: “Ôi thế hệ cứng lòng không chịu
tin …” (17,17). Mt là tác giả duy nhất xác định rằng các môn đệ không
chữa lành được em bé vì họ kém tin. Người cũng là người duy nhất ghi
nhận đức tin mạnh của bà
- Ngài đã sử dụng động
từ hiểu 9 lần trong các chương này. Ở 15,10, các đám đông được mời gọi nghe
và hiểu. Ở 15,16, các môn đệ bị gọi là ngu tối (= không hiểu). Và
cũng chỉ một mình Mt đã ghi nhận rằng các môn đệ khi ấy mới hiểu ra
(16,12; 17,13) những gì cho tới nay họ vẫn không hiểu.
Các ghi nhận này cho
thấy, dọc theo các chương này, tác giả Mt đặc biệt quan tâm đến đức tin,
nhất là đức tin của các môn đệ, nhìn như một hành trình và như một nỗ lực đào
sâu và củng cố đức tin.
Về thể văn, truyện Đức
Giêsu đi trên mặt biển thường được gọi là thể văn “hiển linh” (épiphanie.
Xem truyện Dẹp sóng gió, Mt 8,23-27). Thể văn này được định nghĩa là:
Một cách bố trí các yếu tố văn chương để tường thuật một cuộc tỏ mình
bất ngờ và lạ thường của một hữu thể thần linh hoặc thiên quốc, được một
số người chọn lọc trải nghiệm, trong đó, hữu thể thần linh mạc khải một phẩm
tính, một hành động hoặc một mạc khải thần linh. Đặc điểm của thể
“hiển linh” là nó cho thấy một vài phương diện của hoạt động Thiên Chúa
nhằm cứu độ dân Ngài .
Ở bên trong tác phẩm Mt,
truyện Đi trên mặt biển (14,22-33) đóng các vai trò sau đây: (1) Trả lời cho
câu hỏi về chân tính và tính cách của Đức Giêsu đã được truyện Dẹp sóng gió
(8,23-27) gây ra và được ngữ cảnh gần trước đó ở 13,53–14,21 tiếp nối; (2) Cung
cấp một lời tuyên xưng mào đầu của các môn đệ, chuẩn bị cho lời tuyên
xưng cao đỉnh của Phêrô ở 16,13-20; (3) Góp phần với TM I để minh
họa bản tính và ý nghĩa của quyền lực thần linh của Đức Giêsu trong tư cách là
Con Thiên Chúa.
2- Bố cục
Bản văn này có thể chia
làm bốn phần, theo cấu trúc chuyển hoán:
A - Hoàn cảnh của các
môn đệ trước sóng gió (14,22-24):
a) (22)
b) (23a)
b’) (23b)
a’) (24)
B - Đức Giêsu đi trên
mặt biển (14,25-27):
a) (25)
b) (26)
a’) (27)
B’-
Phêrô đi trên mặt biển (14,28-31):
a)
(28-29a)
b)
(29b)
b’) (30)
a’) (31)
A’- Hoàn cảnh của các môn đệ sau sóng gió (14,32-33):
a) (32)
b) (33)
3.- Vài điểm chú giải
- cây số (24): Từ ngữ Hy Lạp gốc là stadion,
“dặm” (NTT) = 192 m. Hồ Ghennêsarét có chu vi khoảng 53 km
(33 miles), dài khoảng 21 km (13 miles), và rộng khoảng 13 km (8
miles). Diện tích khoảng 166 km2 (64 sq mi), và sâu
tối đa khoảng 43 m (141 feet). Hồ thấp hơn mặt biển 214 m (702 ft).
- Chiếc thuyền bị sóng đánh vì ngược gió (24): Trong TM Mt,
“con thuyền” là biểu tượng của Hội Thánh (x. 8,23-27). Biểu tượng này càng được
xác nhận khi tác giả viết rằng con thuyền bị “tra tấn (hành hạ)” (basanizô)
bởi các con sóng (chứ không nói như Mc 6,48: “các ông phải vất vả chèo
chống”). Kiểu nói này cũng lạ thường như khi tác giả bảo có “động đất” (seismos)
trên biển (8,24). Trong cả hai trường hợp, có thể cho rằng tác giả đang nghĩ
đến các đau khổ Hội Thánh sẽ phải trải qua khi thi hành sứ mạng.
Theo ngôn ngữ Kinh
Thánh, “biển” là nơi có các sức mạnh tà thần cư ngụ và hoạt động (x. G
7,12; Is 27,1; 51,9t; Đn 7…). Nói rằng “đang ở trên mặt biển” có
nghĩa là đang ở trong tình trạng bị các sức mạnh của bóng tối đe dọa. Vậy “biển”
ở đây là một trở ngại ngăn cách các môn đệ với Đức Giêsu.
- canh tư (25): Canh (phylakê) tư ở vào
khoảng từ 3g đến 6g sáng.
- đi trên mặt biển (25): Cụm từ epi
tên thalaasan có thể có nghĩa là “về phía biển”. Do đó, có những tác giả
cho rằng Đức Giêsu đứng trên bờ mà làm yên sóng gió (Paulus; Jeremias; J.
Duncan Derrett). Tuy nhiên, theo ngữ cảnh, phải hiểu là “trên biển”.
- hoảng hốt (26): Đây là phản ứng của con người khi
tiếp cận với thần linh (x. Xh 19,16; Ed một,4…).
- Chính Thầy đây (27): Trước tiên, egô
eimi là một lời để điều chỉnh, với nghĩa là: chính là Thầy, chứ
không phải là ma như anh em tưởng. Nhưng công thức này cũng là tên mà Thiên
Chúa dùng dể tự giới thiệu với Môsê (Yhwh:
x. Xh 3,13-15). Mt kín đáo gợi ý là có một sự song đối
giữa Đức Giêsu và Yhwh.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Hoàn cảnh của các môn đệ trước sóng gió
(22-24)
Vừa
cho đám đông ăn no xong, Đức Giêsu bắt các môn đệ xuống thuyền. Chúng ta nhớ
đến 8,23; nhưng lần này Đức Giêsu không đi với các ông. Tác giả Mt không
nói là các môn đệ đi Bếtxaiđa như Mc (6,45), vì biết rằng Bếtxaiđa không
gần Ghennêsarét. Ngài sửa một sai lầm của Mc mà không quan tâm đến địa
lý. Đức Giêsu lên núi một mình để cầu nguyện. Cũng như ở 17,1-8, “núi” là nơi
đặc biệt gần kề Thiên Chúa. Lúc này, trời đã tối.
Thuyền của các môn đệ
đã xa bờ nhiều stadia và đang bị sóng “tra tấn” (basanizomenon).
Hẳn là tác giả chủ ý dùng từ thuộc thế giới con người cho con thuyền.
Nước, bão, và đêm là những biểu tượng
của tình trạng cùng quẫn, sợ hãi và chết chóc, rất quen thuộc với Hội Thánh,
được rút ra từ các Thánh vịnh (nước: Tv 18,16-17; 32,6;
69,2-3.15; đêm: Tv 91,5; 107,10-12; bão: Tv 107,23-32; Gn
1–2).
* Đức Giêsu đi trên mặt biển (25-27)
Canh
tư, từ 3g đến 6g sáng, cũng là giờ mà theo Kinh Thánh, Thiên Chúa can thiệp để
cứu trợ Dân Ngài (x. Xh 14,24; Tv 46,6; Is 17,14), và theo
truyền thống Kitô giáo, là giờ Đức Giêsu sống lại (x. 28, 1). Vào giờ này, Đức Giêsu băng qua hồ,
bước trên mặt nước, mà đến với các môn đệ (c. 25). Thấy một dáng người di chuyển
trên mặt biển, dễ hiểu vì sao các môn đệ nghĩ đây là một hữu thể siêu nhiên,
một bóng ma, và các ông hốt hoảng.
Nhân
vật thần linh bắt đầu lên tiếng: egô eimi không kèm theo một túc từ nào
cả. Đức Giêsu không nói rằng Người là cái này hay cái kia, nhưng chỉ nói: “Là
Thầy”. Ở bề mặt, đây là cách người nói quy về chính mình. Vậy Đức Giêsu đã đánh
đổ “bóng ma” bằng cách chỉ vào chính bản thân Người, và các môn đệ thì biết
Người. Tuy nhiên, ở bề sâu, công thức egô eimi (Híp-ri: ’aný hu’)
nhắc lại lời Đức Chúa (Yhwh) tự giới thiệu mình trong Kinh Thánh (x. Đnl
32,39; Is 41,4; 43,10; 45,18-19; 48,12; 51,12). Đức Giêsu bảo: “Chính
Thầy đây, đừng sợ !”. Ở trong Kinh Thánh, Thiên Chúa ngỏ lời với các tổ phụ và
* Phêrô đi trên mặt biển (28-31)
Đức
Giêsu chưa làm yên sóng gió. Thay vào đó, Phêrô trả lời Người. Ông thưa với Đức
Giêsu bằng công thức của người môn đệ, “Thưa Ngài (kyrie)”, và xin vị
Chúa này truyền lệnh cho ông đến với Người. Thế là thay vì vị “thần”, Giêsu,
thì lại là con người, Phêrô, muốn bước đi trên mặt nước. Ai cũng biết rằng việc
này không thể làm được, cũng như không thể xê dịch núi non (x. 17,20). Lời
thỉnh cầu này nhắm đến một điều không thể được cho thấy đức tin của Phêrô,
nghĩa là niềm tin tưởng ông đặt vào con người có mọi quyền trên trời dưới đất (Mt
28,18). Tuy nhiên, câu nói “nếu quả là Ngài” lại báo trước sự hoài nghi sẽ xuất
hiện trong nỗi sợ hãi của ông khi bước đi trên mặt nước. Đức Giêsu ban lệnh
truyền như Phêrô xin (“Cứ đến”). Đây là nền tảng trên đó ông có thể hành động.
Lệnh truyền của Đức Giêsu là nền tảng để con người có thể hoạt động. Vậy, nếu
có đi được trên mặt nước, Phêrô cũng chẳng phải là một thầy phù thủy hay một
siêu nhân; ông chỉ vâng lời Chúa của ông thôi.
Nhưng
ông đâm sợ. Không phải là nỗi sợ hãi do gặp một nhân vật thiên giới, nhưng là
sợ bão, sợ bị đe dọa, sợ không được an toàn. Tác giả Mt dùng các từ của Tv
69,2-3 (x. cc. 15-16): Khi bước đi trên mặt “nước”, “nhìn vào gió” (blepôn
ton anemon) thay vì nhìn vào Chúa của ông, ông bắt đầu “chìm” (c. 30), ông
liền “kêu” lên: Thưa Ngài, “xin cứu con” (các từ trong ngoặc đều trích từ Tv
69).
Đức
Giêsu đưa tay ra nắm lấy Phêrô và nói với ông. Ở bề mặt, cử chỉ này của Người
là cần thiết để cho Phêrô khỏi bị chìm. Nhưng ở một chiều sâu khác, hẳn là tác
giả Mt nghĩ đến Tv 143,7: Đức Giêsu cung cấp sự che chở của Thiên
Chúa. Đối với tác giả, điều quan trọng là sự hiện diện cứu độ này của Thiên
Chúa không có nghĩa là không còn bão tố, nhưng là ta trải nghiệm được sự hiện
diện này ngay trong gió bão. Những ai dám vâng lời và di chuyển ra bên ngoài sự
an toàn của mình sẽ trải nghiệm được sự hiện diện này. Một lần nữa, Phêrô vẫn
chỉ là “người có đức tin nhỏ bé” (= người kém tin, oligopistos), và đức
tin là một sự pha trộn giữa can đảm và sợ hãi, vâng nghe Chúa và nhìn vào gió,
tin tưởng và hoài nghi, và đây là đặc tính căn bản của đời Kitô hữu (x. 28,17).
* Hoàn cảnh của các môn
đệ sau sóng gió (32-33)
Câu
chuyện kết thúc rất nhanh. Đức Giêsu và Phêrô cùng lên thuyền với nhau và gió
lặng ngay (c. 32). Một lần nữa, phép lạ Đức Giêsu làm xảy ra sau khi đức tin đã
được chấn chỉnh.
Các
môn đệ quỳ xuống (= thờ lạy): Cung cách này dễ hình dung hơn nếu ở trên “con
thuyền Hội Thánh”, chứ không phải trên một con thuyền trên hồ vừa ra khỏi sóng
gió. Họ tuyên xưng: “Quả thật Ngài là Con Thiên Chúa”. Đây là danh hiệu Kitô
học quan trọng nhất đối với tác giả Mt, đồng thời hầu chắc cũng là lời
tuyên xưng trung tâm nhất của Hội Thánh. Cách nào đó, ngược lại với Mc,
tác giả Mt muốn phác vẽ ra các môn đệ như là những con người có lòng tin
và hiểu biết, dù có lúc họ đã tỏ ra thất vọng và dù vẫn cần học hỏi thêm nữa.
+ Nhận định & Kết luận
Có thể nói bài tường
thuật chuyến vượt “biển” (cũng như truyện Dẹp sóng gió) là một dụ ngôn với cái
nền lịch sử, nhằm nêu bật một phương diện mới và có một không hai
trong ý nghĩa của bản thân Đức Giêsu: Đức Giêsu là Con Thiên Chúa theo nghĩa là
Đấng được Thiên Chúa trang bị cho quyền lực thần linh tuyệt đối để cứu độ dân
Người. Sự kiện Đức Giêsu với quyền lực của Người, không những cứu các môn đệ
khỏi bị sóng hành hạ trên biển, mà còn cứu cả Phêrô khỏi chìm xuống biển
(14,28-31), chuẩn bị cho chúng ta đón lấy lời tuyên xưng của Phêrô nói rằng Đức
Giêsu là “Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” (16,16). Đàng khác, việc biểu lộ
quyền năng thần linh tuyệt đối của Đức Giêsu khi cứu các môn đệ và Phêrô bằng
cách đi trên mặt biển cũng giúp nhận mạc khải nói rằng Đức Giêsu là Đấng có thể
xây dựng và che chở Hội Thánh Người trên “tảng đá” là Phêrô (16,18-19).
Chiều kích cứu độ học của bài tường thuật quả
là hiển nhiên, được diễn tả qua việc đi trên biển. Khi đi trên biển, Đức Giêsu
không những tỏ ra mình là Thiên Chúa chế ngự biển mà còn đi qua biển, và cứu
các môn đệ bằng cách làm cho họ cũng có thể đi qua biển. Như thế, cùng một trật,
Đức Giêsu chứng tỏ Người sở hữu quyền lực thần linh tuyệt đối (phương diện Kitô
học), và quyền lực ấy là để cứu vớt các môn đệ (phương diện Cứu độ học).
Tuy nhiên, phương diện
Cứu độ học phải được cứu xét trong tương quan hữu cơ với chiều kích Kitô học.
Cho dù các môn đệ được cứu, mối bận tậm không phải chỉ là việc cứu hộ, nhưng là
điều mà cuộc cứu hộ lạ lùng này nói về bản thân Đức Giêsu. Điều này nổi rõ lên
trong câu nói của các môn đệ: “Quả thật Ngài là Con Thiên Chúa!” (14,33; x.
8,27). Như thế, chiều kích Kitô học vượt quá truyện cứu hộ, và tập trung vào
quyền lực và bản thân của Đấng cứu hộ. Khi cứu các môn đệ bằng cách vận dụng
quyền năng thần linh tuyệt đối để mà bước đi trên biển, Đức Giêsu đã cho thấy
không những Người có thể cứu khỏi bất cứ trận giông bão nào trên biển, mà còn
có thể cứu dân Người khỏi mọi tình cảnh khốn quẫn. Nói cách khác, nếu Đức Giêsu
có thể cứu các môn đệ Người bằng cách siêu vời là đi trên biển nổi sóng, thì
Người cũng có đầy đủ quyền năng cần thiết mà thực hiện ý muốn của Thiên Chúa là
cứu độ dân Người.
Phương diện Giáo hội
học được diễn tả qua các vai trò của các môn đệ và Phêrô. Nhờ nhớ lại các kinh
nghiệm đã trải qua khi sống các hoàn cảnh túng cực, các độc giả có thể hiểu
được hoàn cảnh của các môn đệ và của Phêrô. Các môn đệ và Phêrô, do đã trải
nghiệm quyền năng phi thường của Đức Giêsu và do đã tuyên xưng Đức Giêsu là Con
Thiên Chúa, thì nhắc các độc giả nhớ rằng không những họ phải tin vào Đức Giêsu
như Đấng có thể cứu hộ họ khỏi các hoàn cảnh đen tối nhất, nhưng còn phải hiểu
rằng Đức Giêsu là Con Thiên Chúa theo nghĩa Người là Đấng duy nhất có quyền
năng Thiên Chúa để cứu được cộng đồng những kẻ tin vào Người. Cử tọa Mt
tin tưởng rằng Hội Thánh gồm những ai tin và đi theo Đức Giêsu thì được che chở
bởi chính quyền lực của Thiên Chúa.
Có thể nói hoạt cảnh
cuối cùng (cc. 32-33) giới thiệu Hội Thánh mới của Đức Kitô, đã vượt thắng thử
thách, nay vây quanh Đức Kitô là Chúa tể của họ. Hoạt cảnh này báo trước cuộc
quy tụ các Kitô hữu để cử hành mầu nhiệm Đức Kitô, trong đó nhắc lại sự hiệp
nhất và hiệp thông đặc biệt của Người với Thiên Chúa, nay được bày tỏ ra qua
các hành vi quyền lực và cũng đầy nhân ái.
Tác
giả Mt trình bày một cuộc thần hiển cho “những người đang ở trong
thuyền”, nghĩa là Hội Thánh của Đấng Phục Sinh: trong và qua Đức Giêsu, Con
Thiên Chúa hằng sống, chính Thiên Chúa cứu độ của cuộc Xuất Hành tiếp tục giải
thoát Israel mới khỏi những làn nước đang đe dọa nuốt trửng họ (x. Xh 14
và 15). Sự hiện diện của Đức Giêsu giữa lòng bão tố là nền tảng cho đức tin của
các tín hữu.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Khác với Lc, Mt hiếm khi cho
thấy Đức Giêsu cầu nguyện (c. 23). Đây là một đòi hỏi thông thường của
tinh thần Người, một nhu cầu có thực là được hiệp thông với Chúa Cha và
tìm sự trợ giúp, sự an toàn và nâng đỡ. Nhất là vào lúc này, thời gian quyết
liệt, hành trình đã trở nên cam go hơn và các đòi hỏi làm sáng tỏ đã trở nên
cấp bách hơn. Đây là lần đầu tiên, Mt nhấn mạnh rằng Người ở một mình;
một sự cô độc không chỉ về thể lý, mà dường như là một báo trước sự cô
độc ở Ghếtxêmani. Đức Giêsu cầu nguyện cho mình, cho các nhu cầu của cá nhân
mình. Rồi Người cũng mau chóng đi cứu giúp các môn đệ, nhưng sức mạnh và sự an
toàn Người cung cấp phát xuất từ tương quan với Chúa Cha. Người là Đấng cứu độ
họ, nhưng cũng là điển hình cho họ về đời sống đức tin.
2. Đối với tác giả Mt, con thuyền là
biểu tượng của Hội Thánh (x. 8,24). Các môn đệ đang ở trên đó, và có thể Phêrô
là người cầm lái (x. c. 28). Không có mặt Thầy, tinh thần của các ông hẳn không
cao mấy; đã thế, hoàn cảnh lại thêm gay go vì gió ngược (c. 24). Con thuyền bị
“tra tấn” vì cơn giông trên biển. Lúc này là “đêm tối” (c. 25), là giờ của thử
thách, của “quyền lực bóng tối” (x. Lc 22,53). Tuy nhiên, Đức Giêsu vẫn
không vắng mặt, dù là Người còn ở cách xa họ. Nếu có đức tin, hẳn là họ phải
cảm thấy Người vẫn có mặt, vẫn ở gần. Quả thật, các khoảng cách không thể ngăn
cản Đức Giêsu hiệp thông với các môn đệ Người (x. 18,20). Người đến với họ cách
bất ngờ, từ trên cao, vào những lúc không ngờ.
3. Đáng tiếc là các môn đệ lại thường quên mất
Người. Phản ứng kinh hoàng của các ông khi thấy Thầy đi trên biển cho ta hiểu
như thế (c. 26). Đây là một hình ảnh báo trước cuộc Hiển Dung và các
cuộc hiện ra sau Phục Sinh. Đức Giêsu tiến đi ngay giữa lòng đêm tôi chính là
lời loan báo về Đức Kitô Phục Sinh.
4. Phêrô là cái nhiệt kế đo đức tin của Hội
Thánh. Ông phản ứng nhân danh mình và tất cả các môn đệ khác. Đòi hỏi các dấu
lạ, các bằng cớ chứng tỏ lòng tốt cũng như sự toàn năng của Thiên Chúa là một
đòi hỏi không thể bỏ qua của loài người. Các nhân vật Kinh Thánh đều cần
những dấu chỉ, để có thể dấn thân đi theo nẻo đường Thiên Chúa đề nghị. Niềm
tin vào Đức Kitô Phục Sinh đang hiện diện trong lòng Hội Thánh, cũng cần có
những bằng cớ mới, nhưng ta không có bằng cớ nào chắc chắn hơn lời của Đức
Giêsu: “Chính Thầy đây” (= Ta là), “Cứ đến!” (cc. 27-29).
5. Bước đi vững vàng trên mặt nước có nghĩa là
chấp nhận một chiều kích hiện sinh khác với chiều kích lịch sử, hoặc
chiều kích thể lý, là mở tâm hồn ra với thế giới của thực tại vô hình, của thực
tại siêu nhiên. Đây là vượt lên trên những luật lệ của cuộc hiện sinh này. Muốn
thế, cần tin vượt quá cái hữu hình và cái đụng chạm đến được; cần phải chấp
nhận “hỏng chân”. Khi Tôma tuyên xưng niềm tin vào Đức Kitô Phục Sinh: “Lạy
Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!” (Ga
20,28), ông cũng phải chấp nhận bỏ mọi điểm tựa vững chắc kiểu loài người.
6. Các độc giả Tin Mừng, rất quen với Tv
69, cùng cầu nguyện với Phêrô. Họ nhận ra mình nơi Phêrô và thấy nước chính là
tất cả những mối đe dọa trong đời họ: cái chết, tình trạng thiếu an toàn, sự
thù nghịch, bệnh tật, tội lỗi… Họ biết
rằng nếu chỉ “nhìn vào” gió chứ không nhìn vào Chúa, họ sẽ không đứng vững
được.
Lm
PX Vũ Phan Long, ofm