NGƯỜI PHỤ NỮ
(Mátthêu 15,21-28 – CN
XX TN - A)
1.- Ngữ cảnh
Trong
các bản văn trước, ta thấy, sau khi Đức Giêsu bị dân Nadarét loại trừ và Gioan
Tẩy Giả bị chém đầu, Đức Giêsu đã hoàn toàn tập trung vào việc giáo huấn các
môn đệ; Người có chữa bệnh, nhưng không còn ngỏ lời với đám đông nữa. Tuy
nhiên, các tranh luận với người Pharisêu vẫn còn, ngày càng gay gắt hơn. Đức
Giêsu trách họ là đã thêm quá nhiều quy tắc vào Luật Môsê khiến cho Luật này
trong thực tế không còn giá trị nữa; cùng lắm chỉ một số chuyên viên rất
rành các truyền thống tiền nhân mới giữ được mà thôi. Đức Giêsu phản ứng bằng
cách đưa Luật Môsê trở lại với sự đơn giản ban đầu, để toàn dân có thể tuân
giữ.
Trong
bản văn đi trước sát đoạn văn của chúng ta, Đức Giêsu còn đi xa hơn. Trong một dịp tranh luận với người Pharisêu
về món ăn trong sạch và không trong sạch, dường như Người gợi ý là người ta có
thể ăn mọi thức mà chính Luật Môsê cấm! Thế mà điều này đã từng là một trong
những lý do gây chia rẽ Do Thái và Dân ngoại. Vậy Đức Giêsu dường như đang quay
về với một thái độ mềm dẻo hơn đối với Dân ngoại. Chính trong khung cảnh
này mà ta đọc được truyện “Người phụ nữ
2.- Bố cục
Bản văn được bố trí
thành những đoạn đối thoại với Đức Giêsu, như những bậc đi lên tới một cao
điểm:
* Mở: Hoàn cảnh
(15,21);
1) Đoạn một: Đức Giêsu
và người phụ nữ: Đức Giêsu làm ngơ = từ chối (15,22-23a);
2) Đoạn hai: Đức Giêsu
và các môn đệ: Đức Giêsu trả lời = từ chối (15,23b-24);
3) Đoạn ba: Đức Giêsu
và người phụ nữ: Đức Giêsu trả lời = từ chối (15,25-26);
4) Đoạn bốn: Đức Giêsu
và người phụ nữ: Đức Giêsu khen ngợi =
đồng ý (15,27-28).
3.- Vài điểm chú giải
- Đức Giêsu lui về miền Tia và Xiđôn (21): Ghi chú về nơi
chốn này có tính cách thần học. Tác giả Mt cho thấy Đức Giêsu tiếp xúc
với Dân ngoại cư ngụ trong vùng này. Cụm từ “Tia và Xiđôn” thường được dùng để
gọi vùng Dân ngoại cư ngụ ở về phía biên giới tây bắc Paléttina; nơi này cũng
còn được gọi là Phênikia. Dân Phênikia tự gọi mình là “dân Canaan”, và Cựu Ước
cũng như Tân Ước đã lấy lại tên gọi đó.
- ở vùng ấy đi ra (22): Giải thích như BJ
(1998) rằng “ân huệ cuối cùng được Đức Giêsu ban cho người phụ nữ ngoại giáo
này rất có thể sẽ là trong đất Israel”, hay như Bd CGKPV (2004): “Mátthêu hình
như muốn ngụ ý rằng, sở dĩ người đàn bà ngoại giáo biết tuyên xưng Chúa Giêsu
là Con vua Đavít là vì bà đã đi ra khỏi miền dân ngoại và chỉ trong đất
Ít-ra-en bà mới được Chúa thi ân” dường như có phần ép nghĩa. Nhưng c. 21 lại
cho hiểu rằng chính Đức Giêsu mới đi ra khỏi đất
- Con vua Đavít (23): Vì danh tiếng
Đức Giêsu đã lan tới các vùng này, người ta biết các tên của Người. Do đó,
không chắc là khi gọi Người như thế, người phụ nữ đã tin Người là Đấng Mêsia.
Rất có thể bà gọi Người như thế là chỉ bắt chước người Do Thái. Tuy nhiên, lời
kêu của bà cũng vẫn là một lời trách gửi đến cho dân Do Thái vì họ đã
không biết nhận ra Đức Giêsu là Đấng Mêsia.
- Thầy chỉ được sai đến với những con chiên lạc
của nhà Ít-ra-en mà thôi (24): “Chỉ được sai đến” là một thái bị động thay tên
Thiên Chúa (= Thiên Chúa chỉ sai Thầy đến với …). Đức Giêsu nhắc lại một bài
sai rất phù hợp với các sấm ngôn nói rằng sẽ đến một ngày Yhwh đuổi các mục tử giả hiệu ra khỏi
- Chó con (26): Từ Hy Lạp kynarion (“chó
con”) là dạng giảm nhẹ của từ kyôn (“chó”). Người Do Thái thường gọi Dân
ngoại là “chó” (Híp-ri keleb). Phải chăng Đức Giêsu dùng từ ở dạng giảm
nhẹ để giảm bớt tính khinh bỉ trong từ “chó”? Không chắc, bởi vì: 1) Trong Hy
Lạp koinê (bình dân), không chắc là dạng giảm nhẹ ấy có giá trị là một sự
giảm thiểu; 2) Ngôn ngữ A-ram không có dạng từ tương ứng với “chó con”. Do đó,
hẳn là Đức Giêsu đã dùng từ A-ram truyền thống là kalơbâ’ (chó) để gọi
Dân ngoại.
4.- Ý nghĩa của bản văn
Phải
chăng Đức Giêsu đã quyết định bỏ mạc
Người phụ nữ đã thưa
với Đức Giêsu: “Lạy Ngài là Con vua Đavít, xin rủ lòng thương tôi” (c. 22). Khi
nói” Xin rủ lòng thương tôi”, bà đã dùng ngôn ngữ Kinh Thánh lấy từ các Thánh
vịnh (Tv 6,3; 9,14; 26,7; 30,10; 40,56; 85,.3; 122,3; v.v.). Đây là ngôn
ngữ quen thuộc với Hội Thánh. “Ngài/Chúa, kyrie”, là danh hiệu các môn
đệ và những người cầu xin thường dùng để thưa với Đức Giêsu. Khi gọi Người là
“Con vua Đavít”, cho dù đức tin của bà chưa rõ ràng, bà cho thấy bà đang quay
về với Đấng Mêsia của
Các môn đệ tìm cách
đuổi bà ấy đi. Các ông đóng một vài trò tiêu cực, giống như ở 14,15; 19,13. Các
ông giải thích xấu tiếng kêu la của người phụ nữ; các ông không nghe ra được
nỗi cùng quẫn của bà, mà chỉ thấy là bà đang đi theo nhóm và làm phiền bằng
tiếng kêu la. Lời đáp của Đức Giêsu nằm trong ngữ cảnh này: “Thầy chỉ được sai
đến với những con chiên lạc của nhà Ít-ra-en mà thôi” (c. 24); Người tuyên bố
như vậy trước mặt các môn đệ và trong hoàn cảnh dân Do Thái khép lòng lại trong
thái độ cứng tin. Điều này, chính Người đã một lần nói lên khi sai phái
Nhóm Mười Hai (x. 10,6). Như thế Người hỗ trợ cho việc dứt khoát từ chối người
phụ nữ và còn cho thấy điều này thuộc về lịch sử cứu độ. Nếu vậy, sau này khi
Đức Giêsu truyền dạy các môn đệ đi đến với muôn dân (28,18-20), điều này có
nghĩa là có một sự thay đổi căn bản trong chương trình của Thiên Chúa. “Các con
chiên lạc của nhà Israel” không phải chỉ là “các con chiên đen” tại Israel, nhưng
có thể hiểu là toàn thể dân Thiên Chúa mà Đức Giêsu được gửi tới. Câu trả lời
của Đức Giêsu cho thấy Người không dành cho người phụ nữ một chút quan tâm nào
nữa. Thế nhưng bà vẫn quay về Đức Giêsu và bái lạy Người (x. 8,2; 9,18). Một
lần nữa, bà gọi Người là “Ngài/Chúa, kyrie”,
và một lần nữa, bày nài xin Người với những lời lấy từ các Thánh vịnh (Tv
43,27; 69,6; 78,9; 108,28). Một lần nữa, Đức Giêsu từ chối bằng lời lẽ rất
mạnh: “Không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con” (c. 26). Người
muốn nói rằng Tin Mừng chỉ được nhắm phân phát cho “con cái”, tức là dân tộc Do
Thái, những người thừa kế lời Thiên Chúa hứa. Không chắc người phụ nữ hiểu được
ý này, khi bà trả lời: “Thưa Ngài, đúng thế, nhưng mà lũ chó con cũng được ăn
những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống” (c. 27). Có lẽ phải nói rằng bà tự gọi
mình là “chó” không phải là một sự khiêm nhường, nhưng là để bẻ lại Đức Giêsu:
Trong gia đình, nhưng con chó cũng được hưởng những mảnh vụn từ bàn chủ rơi
xuống. Dù bị từ chối nhiều lần, người phụ nữ vẫn không nản chí, bà vẫn tiếp tục
cầu xin. Thế là Đức Giêsu chấp nhận lời bà thỉnh cầu.
Đức
Giêsu mô tả sự tin tưởng vô điều kiện của người phụ nữ, được diễn tả bằng những
lời xin được lặp lại liên tục, là “lòng/đức tin” (x. 8,10.13; 9,22.29). Đức tin
có nghĩa là người ta không có bất cứ điều gì ngoại trừ sự tin tưởng đặt nơi Đức
Giêsu. Câu truyện kết thúc giống như truyện viên sĩ quan ở Caphácnaum. Lời
thỉnh cầu không ngơi nghỉ của bà đã được chấp nhận. Con gái bà được khỏi (c.
28).
Việc
Đức Giêsu chấp nhận lời thỉnh cầu của bà trở thành một lời gián tiếp kết
án sự công chính và sự an toàn mà dân Do Thái nghĩ là họ đang có, dựa trên
truyền thống và tư cách thừa kế lời Thiên Chúa hứa cho tổ phụ Abraham: họ không
còn biết đón nhận ơn Thiên Chúa tuyển chọn trong đức tin nữa. Còn bà
+ Kết luận
Truyện người phụ nữ
Canaan hàm chứa hai khẳng định bề ngoài mâu thuẫn nhau: sự tuyển chọn
5.- Gợi ý suy niệm
1. Bản văn hôm nay cho hiểu rằng tư cách của
chúng ta là người đã được rửa tội không phải là một quyền để chúng ta có
thể phê phán hoặc khinh bỉ người khác. Tư cách này thật ra là một ơn
Thiên Chúa ban cho chúng ta. Riêng Ngài, Thiên Chúa không hề bị ràng buộc vào
bất cứ cấu trúc tôn giáo nào hay bất cứ tư cách nào của con người cả. Ngài vẫn
đang thấy có “lòng tin mạnh thật” nơi những người mà chúng ta coi thường. Ngài
vẫn có thể làm dấy lên một dân mới cho Ngài.
2. Bà Canaan này đã vượt qua được mọi trở ngại,
bằng sự kiên trì, bằng khả năng thuyết phục riêng của phái nữ: nhẹ nhàng, bình
thản, nhưng cương quyết. Bà đã vượt qua được các trở ngại bằng trí thông minh
đầy khiêm tốn, chứ không phải bằng sự ngạo mạn khiêu khích, hoặc bằng thái độ
quỵ lụy, hạ mình, cầu cạnh. Để làm được như thế, trước tiên bà phải rất thương
yêu đứa con của bà. Bà thương yêu đứa con nhỏ yếu đuối, không có thể tự làm gì
để cứu mình. Bà trở thành đại diện cho nó; bà cũng trở thành đại diện cho những
người không thể tự mình diễn tả ra vấn đề của họ. Bà là phát ngôn viên của
những người cô thế cô thân, những người yếu đuối. Bà hiểu vụ việc của bà, bà
xác tín bà có lý, bà chắc chắn là bà có quyền xin được cứu giúp. Không phải bà
chỉ muốn bày tỏ nguyện vọng của mình, còn đáp ứng thế nào thì tùy Đức Giêsu; bà
đã có cách xin khiến Đức Giêsu không thể từ chối được.
3. Không biết là bà có linh cảm được rằng Đức
Giêsu thế nào cũng chấp nhận lời bà thỉnh cầu chăng. Không biết là bà có đã
nghe biết nhiều về Đức Giêsu chưa. Không biết là bà có hiểu biết phần nào nhân
cách của Người chăng. Nhưng cách bà xin cho thấy là bà biết là bà có thể cậy
dựa vào Đức Giêsu. Dù sao người phụ nữ cũng có linh cảm sắc bén hơn về con
người, có cảm thức rất chính xác về từng con người họ gặp gỡ. Chắc chắn bà này
đã được hỗ trợ bằng sự linh cảm rất nữ tính này. Khi biết rằng bà xin không phải
cho bà, khi biết rằng con người mà bà đến gặp để thỉnh cầu là con người có lòng
nhân ái, thì bà chẳng có gì để sợ mất. Bà đã xin, xin mãi. Ta có thể nhớ đến dụ
ngôn Đức Giêsu kể về bà góa nhất định xin ông quan toà bất nhân cứu xét cho vụ
việc của mình ở chương 18 của Tin Mừng Luca. Dường như sự kiên trì là
một đức tính chủ yếu của phái nữ.
4. Dường như tôi dễ buông xuôi trước một khó
khăn dù bé nhỏ. Dường như tôi không có xác tín mãnh liệt về ơn gọi của tôi để
sống cho đến mức độ cuối cùng. Dường như tôi không có cảm thức rằng số phận của
người khác liên hệ đến cách tôi sống ơn gọi của tôi. Quả thật, tôi lùi bước tức
khắc khi vừa bị từ chối. Có mấy khi tôi kiên trì cầu xin Chúa cho một người đã
cậy nhờ tôi cầu nguyện cho đâu. Dường như tôi chẳng dám lên tiếng cho những
người cô thế cô thân, vì tôi sợ liên lụy đến tôi, tôi sợ mất quyền lợi, mất chỗ
đứng, mất sự tín nhiệm... Có khi chỉ nguyên nghĩ rằng tôi chẳng đạt được kết
quả gì đâu, là tôi đã cảm thấy tê liệt, chân tôi không sao nhúc nhích được nữa
rồi. Người phụ nữ
5. Hội Thánh sống giữa Dân ngoại có nhiệm vụ
công bố sứ điệp của Đức Giêsu cho họ: Đức Giêsu không giam hãm Thiên Chúa bên
trong biên cương của
Lm
PX Vũ Phan Long, ofm