điỀu
răn trỌng nhẤt
(Mátthêu 22,34-40 – CN
XXX TN - A)
1.- Ngữ cảnh
Trong cấu trúc văn chương
của TM Mt, đoạn văn 22,34-40
phải được coi như một bài tường thuật về một cuộc tranh luận nữa của Đức Giêsu
với các đối thủ, là các đại diện Do Thái giáo chính thức. Họ tìm cách gài bẫy
Đức Giêsu bằng chính những lời nói của Người (cc. 15 và 35) về những vấn đề
ngày càng thêm quan trọng: nộp thuế cho Xêda, là vấn đề đặt đối lập các
nhóm Hêrôđê, Pharisêu và Nhiệt Thành (Quá Khích) với nhau; sự sống lại của
kẻ chết, là vấn đề được phái Xađốc đặt ra; điều răn lớn nhất, là mối
bận tâm của người Do Thái tuân thủ luật Môsê nghiêm nhặt, tức phái Pharisêu.
Các vấn đề ấy được đặt ra cho một vị Rabbi: “Thưa Thầy” (didaskale;
x. cc. 15.24.36); đây là danh hiệu cho thấy là họ hiểu Đức Giêsu đứng vào vị
trí nào. Vấn đề cuối cùng được chính Đức Giêsu nêu ra sẽ là vấn đề “con vua
Đavít” (22,41-46). Đây là bốn vấn đề thường được người Do Thái thời Đức Giêsu
tranh luận nhiều nhất.
Có lẽ bản văn hôm nay
cũng phác lại một cuộc gặp gỡ nào đó giữa Đức Giêsu và một vị tôn
sư của Do Thái giáo; vị này hẳn là muốn làm sáng tỏ hoặc đào sâu các điều răn.
Ở Mc 12,28-34 và Lc 10,25-28, ta không thấy có giọng điệu bút chiến như ở bản văn Mt
(x. c. 34). Riêng trong bản văn Mt, vị thông luật hỏi là để “thử” Đức
Giêsu.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành ba phần:
1) Câu chuyển tiếp: Người Pharisêu quy tụ lại (22,34);
2) Câu hỏi về điều răn trọng nhất: mục tiêu và nội dung
(22,35-36);
3) Câu trả lời của Đức Giêsu (22,37-40).
3.- Vài điểm chú giải
- Điều răn nào là điều răn trọng
nhất (36): Do Thái giáo vẫn đang đi tìm một nguyên tắc
thống nhất. Các kinh sư cũng tìm cách xác lập một hệ thống tổng hợp với các
đường hướng chủ đạo: Đavít xác định mười một điều (Tv 15,2-5), Isaia sáu (Is
33,15), Mikha ba (Mk 6,8), Amốt hai (Am 5,4), và Khabacúc một (Kb 2,4). Đây là bản tóm lược của Rabbi
Simbai (tk iii).
- yêu mến (37): Động từ Híp-ri ’âhav có
một loạt ý nghĩa, từ tình yêu tính dục đến tình yêu đới với người trong gia
đình, đối với bạn bè, sự trung thành trong đời sống chính trị đến tình yêu đối
với Thiên Chúa. Theo cách giải thích của người Do Thái về Đnl 6,5, “tình yêu đối với Thiên Chúa” được diễn tả trước tiên bằng
những hành vi vâng phục, trung thành với Torah. Yêu mến Thiên Chúa là hy sinh
mạng sống vì các điều răn của Người.
- hết lòng, hết linh hồn, hết trí
khôn (37): Theo nhân học Híp-ri, “trái tim” (lòng) là cơ
sở của tình cảm; còn “linh hồn” là phương diện sinh lực của con người. “Trí
khôn” (dianoia) là từ Hy Lạp cũng có ý nghĩa như “trái tim” theo ngôn
ngữ Híp-ri. Tác giả Mt đã lấy từ Mc
12,30 (“lòng, linh hồn, trí khôn và sức lực”), nhưng bỏ “sức lực” và chọn giữ
lại “trí khôn” để có bộ ba. Cả ba danh từ này được dùng theo nghĩa tổng hợp: tình
yêu đối với Thiên Chúa phải trọn vẹn, huy động tất cả con người, thậm chí phải
chết.
- yêu người thân cận (39): Ngữ cảnh của Lv 19,11-18
là như sau: Đây là những điều khoản luân lý căn bản của Thiên Chúa liên hệ đến
người thân cận, kể cả người yếu thế về mặt xã hội hoặc một đối thủ tại tòa án.
Song song với “yêu” là: không trộm cắp, cư xử sai lệch, nói dối, thề gian, lừa
gạt, cướp đoạt, nguyền rủa, xét xử bất công, vu khống, thù ghét. Lv 19,34 thêm: không vi phạm quyền lợi
của tha nhân.
- thân cận (39): Theo bản văn căn bản Lv
19,18 và theo hầu như cách giải thích Lv
19,18 của toàn thể Do Thái Paléttina, “thân cận” (đồng loại) đây là người
Israel mà thôi, những người đã được Thiên Chúa ban Lề Luật cho. Chỉ những người
ngoại quốc đang sống tại đất Israel, cũng đước áp dụng một nền công lý này, mới
được kể vào số “người thân cận” (Lv
19,34); sau này, chỉ những người dự tòng mới được coi như thế. Đức Giêsu theo
truyền thống Mt đã mở rộng nghĩa của
từ ngữ này mà áp dụng cho tất cả mọi người (x. Mt 5,43-48; 7,12; 19,19).
- Tất cả Luật Môsê và các sách
ngôn sứ (40): Đức Giêsu không chỉ đặt hai điều
răn này đứng đầu 613 quy định của Luật Môsê, như thể ở bên cạnh các quy định
ấy; Người còn làm thành một tổng hợp. “Luật và các Ngôn sứ” là cách gọi tên bộ
Kinh Thánh Do Thái (tức Cựu Ước thu hẹp), cũng có thể hiểu là ý muốn của Thiên
Chúa đã được ghi giữ trong Kinh Thánh.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Câu chuyển tiếp: Người
Pharisêu quy tụ lại (34)
Bản văn hôm nay vẫn nằm
trong chiều hướng các cuộc tranh luận các nhóm đại diện Do Thái giáo chính thức
gây ra với Đức Giêsu. Tuy vậy, các hoàn cảnh tiêu cực này vẫn không ngăn cản
Đức Giêsu cống hiến những mạc khải hoặc giáo huấn quan trọng.
Để đáp lại tin tức về
sự thất bại của phái Xađốc, người Pharisêu đã họp nhau lại.
* Câu hỏi về điều răn trọng nhất (35-36)
Một người thông luật trong nhóm đã hỏi để “thử” (peirazôn) Người (c. 35), như họ đã từng
làm (x. Mt 22,15.18). Tuy nhiên, câu
hỏi này cũng có lý do của nó: các trường phái và các vị thầy
* Câu trả lời của Đức Giêsu (37-40)
Câu trả lời của Đức Giêsu
cũng chẳng độc đáo, dù là trong lời nhắc lại giới răn tình yêu đối với Thiên
Chúa, hay trong lời nhắc nhớ về tình yêu đối với người thân cận. Cả hai điều
răn này đều được nói đến trong Lề Luật, và bất cứ người
Như vậy, câu trả lời của Đức
Giêsu đã rõ. Phải yêu mến người khác với trọn vẹn bản thân mình, tức là trong
thực tế không chỉ bằng lời nói, còn về phương diện con người, bằng cách giúp đỡ
tận tình, nồng nhiệt. Cách đặt ngang hàng hai điều răn như thế, chúng ta đã
thấy trong Bài Giảng trên núi, trong đó Đức Giêsu mời gọi người ta làm hành vi
phượng tự sau khi đã giao hòa với người anh em (5,23-24) và yêu mến cả kẻ thù
như Thiên Chúa yêu họ (5,44-48).
Có thể nói ở c. 40, tác
giả Mt tóm tắt cái nhìn của ngài về
hai điều răn trọng nhất. Công thức “ Luật (Môsê) và các sách ngôn sứ” đưa chúng
ta trở lại với hai đoạn trung tâm ở 5,17 và 7,12. Ở đó, bản văn nói rằng Đức
Giêsu làm trọn Lề Luật và các ngôn sứ , và cả hai khối này tập trung vào hoàng
kim quy tắc. Như vậy, c. 40 hàm ý là Lề Luật và các sách ngôn sứ được hoàn tất
qua Đức Giêsu. Đồng từ “tùy thuộc vào” (kremannymi
en) cho chúng ta biết quan niệm của tác giả Mt về Lề Luật. Hai điều răn này, cũng như hoàng kim quy tắc , chính
là nguyên tắc căn bản hướng dẫn việc giải thích bài Giảng trên núi, cũng như Lề
Luật và các sách ngôn sứ.
+ Kết luận
Câu trả lời của Đức Giêsu không phải là câu trả lời của một
kinh sư, dù Người được các người Pharisêu coi như thế. Đây là câu trả lời của
vị Chúa Tể Lề Luật. Chính Người công bố Luật và chính Người hoàn tất Luật (x.
5,17). Chính do sự kiện Đức Giêsu hoàn tất Luật mà Người mang lại cho Luật tính
chất mới mẻ đích thật. Tình yêu đối với Thiên Chúa và tình yêu đối với tha nhân
không phải chỉ là những thái độ con người bị buộc phải có; hai tình yêu này
nhập thể nơi bản thân Đức Giêsu. Chính vì Người đã đến dùng cuộc đời, cái chết
và sự sống lại của Người mà hoàn tất “Luật và các Ngôn sứ”, mà Người có thể
công bố với giọng uy quyền rằng toàn thể Giao ước cũ đều “tùy thuộc” vào việc
yêu mến Thiên Chúa và yêu thương tha nhân. Chính nơi Người mà không những Lề
Luật, dưới dạng điều răn, mà cả
lời hứa ân phúc, được các Ngôn sứ loan báo, đã được thực hiện trọn vẹn.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Khi tuyên bố về điều răn trọng nhất (“hai trong một”), Đức Giêsu đã
công bố sự giải phóng tuyệt vời cho con người. Bây giờ, ta chỉ còn phải tuân
giữ hai điều mà thôi. Người nào chu toàn thật sự những gì được yêu cầu trong
hai điều răn này thì có thể chắc chắn là đã hoàn tất Lề Luật và thực hiện ý
muốn của Thiên Chúa (x. Mt 7,12; Gl 5,14; Rm 13,8-10). Đây chính là điều Thiên Chúa nhắm khi tạo thành con
người. Họ được tạo nên để vâng phục Thiên Chúa như chủ và chúa của mình, và
cũng để yêu thương Người như cha của mình. Thế mà sự vâng phục chỉ nên trọn vẹn
trong tình yêu mà thôi.
2. Người thân cận không phải chỉ là người thuộc về cùng một dân tộc, ở
trong cùng một quốc gia, nói cùng một ngôn ngữ. Bất cứ ai cũng có thể là người
thân cận của tôi, nhưng không phải lúc nào cũng thế. Tránh né luật yêu thương
bằng cách nói đến những người thân cận ở xa, để lơ đi những người ở bên mình
đang cần được mình quan tâm, là một cám dỗ dễ rơi vào. Chính tình yêu đối với
Thiên Chúa và tình yêu của Thiên Chúa phải là mẫu mực cho tình yêu của con
người đối với nhau.
3. Yêu thương anh em không phải chỉ bởi vì Thiên Chúa yêu cầu, để vâng
lời Thiên Chúa. Liên hệ giữa hai tình yêu này không phải là một liên hệ pháp
lý, võ đoán, mà là liên hệ nội tại: ta không thể yêu mến Thiên Chúa nếu không
yêu thương anh em. Trong khi yêu thương người khác vì chính họ, ta yêu mến
Thiên Chúa vì chính Người. Chỉ có một tình yêu duy nhất, vì con người chỉ có
một con tim. Ta có thể suy ngẫm lại bài thánh ca đức mến của thánh Phaolô để
thêm xác tín về điểm này (1 Cr
13,4-6).
4. Sự liên kết giữa tình yêu đối với Thiên Chúa và tình yêu đối với người
thân cận, đồng thời sự khác biệt giữa hai tình yêu đó, giúp ngăn cản một sự
tách biệt giữa tôn giáo và xã hội, giữa bản tính bên trong và đời sống bên
ngoài. Yêu mến bản thân mình có thể được nhờ tình yêu đối với Thiên Chúa; chính
tình yêu đối với Thiên Chúa đưa tới chỗ không tuyệt đối hóa bản thân, mà lại có
một sự nội tâm hóa mới, đồng thời có một tình yêu nồng nàn hơn đối với người
thân cận.
Lm PX Vũ Phan Long, ofm