LỄ CHÚA HIỂN LINH (06/01)
Is 60,1-6 ; Ep 3,2-3a.5-6 ; Mt 2,1-12
TRỞ NÊN ÁNH SAO DẪN ĐƯỜNG CHO THA NHÂN
I. HỌC LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG: Mt 2,1-12
(1) Khi Đức Giê-su ra đời
tại Bê-lem miền Giu-đê, thời vua Hê-rô-đê trị vì, có mấy nhà chiêm tinh
từ phương Đông đến Giê-ru-sa-lem. (2) Và hỏi: “Đức Vua dân Do-thái mới
sinh, hiện ở đâu ? Chúng tôi đã thấy vì sao của Người xuất hiện bên
phương Đông, nên chúng tôi đến bái lạy Người". (3) Nghe tin ấy, vua
Hê-rô-đê bối rối, và cả thành Giê-ru-sa-lem cũng xôn xao. (4) Nhà vua
liền triệu tập tất cả các thượng tế, các kinh sư trong dân lại, và
hỏi cho biết Đấng Ki-tô phải sinh ra ở đâu. (5) Họ trả lời: “Tại
Bê-lem miền Giu-đê. Vì trong sách ngôn sứ có chép rằng: (6) “Phần ngươi
hỡi Bê-lem, miền đất Giu-đa. Ngươi đâu phải là thành nhỏ nhất của
Giu-đa. Vì ngươi là nơi vị lãnh tụ chăn dắt Ít-ra-en dân Ta sẽ ra
đời”. (7) Bấy giờ vua Hê-rô-đê bí mật vời các nhà chiêm tinh đến, hỏi
cặn kẽ về ngày giờ ngôi sao đã xuất hiện. (8) Rồi vua phái các vị
ấy đi Bê-lem và dặn rằng: “Xin quí ngài đi dò hỏi tường tận về Hài
Nhi, và khi đã tìm thấy, xin báo lại cho trẫm, để trẫm cũng đến bái
lạy Người. (9) Nghe nhà vua nói thế, họ ra đi. Bấy giờ ngôi sao họ đã
thấy ở phương Đông, lại dẫn đường cho họ đến tận nơi Hài Nhi ở, mới
dừng lại. (10) Trông thấy ngôi sao, họ mừng rỡ vô cùng. (11) Họ vào
nhà, thấy Hài Nhi với thân mẫu là bà Ma-ri-a, liền sấp mình bái lạy
Người. Rồi mở bảo tráp, lấy vàng, nhũ hương và mộc dược mà dâng
tiến. (12) Sau đó, họ được báo mộng là đừng trở lại gặp vua Hê-rô-đê
nữa, nên đã đi lối khác mà về xứ mình.
2. Ý CHÍNH:
Tin Mừng Mát-thêu chứng minh Đức Giê-su chính là Đấng Thiên
Sai qua việc Người đã thực hiện các lời ngôn sứ tiên báo về Người
như: Thuộc dòng dõi Đa-vít (x. Tv 132,11; Mt 1,18-25), là con một thiếu
nữ còn đồng trinh (x. Is 7,14 ; Mt 1,23), sinh ra tại Bê-lem quê hương vua Đa-vít
(x. Mk 5,1; Mt 2,5-6), các vua chúa sẽ đến thờ lạy Người (x. Tv 72,10;
Is 60,6; Mt 2,11).
3. CHÚ THÍCH:
- C 1: + Bê-lem miền Giu-đê: Bê-lem hay
Bethlehem, là một thị trấn nhỏ, cách thủ đô Giê-ru-sa-lem khoảng 9-10
cây số về phía Nam. Ngày xưa Bê-lem được gọi là Ep-ra-tha. Tuy là một
thị trấn nhỏ bé, nhưng Bê-lem có một lịch sử lâu đời và danh tiếng
vì là quê hương của vua Đa-vít (x. 1 Sm 16,1 tt). Chính từ dòng dõi
Đa-vít mà Thiên Chúa đã ban Đấng Cứu Thế cho dân Ngài, như lời tuyên
sấm của ngôn sứ Mi-kha (x Mk 5,1). + Thời vua Hê-rô-đê trị vì: Đây
là Hê-rô-đê Đại Vương, phân biệt với Hê-rô-đê An-ti-pha được gọi là
Hê-rô-đê Con. Hê-rô-đê Đại Vương là một con người đa nghi, độc ác và
tham quyền cố vị. Chúa Giê-su đã sinh ra tại thành Bê-lem miền Giu-đê
dưới thời Hê-rô-đê Đại Vương. + Có mấy nhà chiêm tinh: Cũng
gọi là đạo sĩ. Họ đến từ phương Đông, quê hương của Ba-la-am (x. Ds
23-24). Đây là những người thông thái, am tường khoa chiêm tinh. Người ta
thường dựa vào ba lễ vật họ dâng mà quả quyết là có ba vị. Truyền
thuyết dân gian còn kể tên: Một là Men-ki-o da trắng, hai là Gát-pa da
vàng, ba là Ban-tha-gia da đen. Qua đó, ngụ ý rằng: Ơn Cứu Độ của
Chúa phổ quát cho mọi dân tộc, không chỉ dành riêng cho dân Do-thái mà
thôi.
- C 2-3: + Đức Vua dân Do-thái mới sinh hiện ở đâu: Câu hỏi của các nhà chiêm tinh ngoại giáo được nói lên như
một lời loan báo cho người Do-thái biết Đấng Cứu Thế đã ra đời. + Chúng
tôi đã thấy vì sao của Người xuất hiện: Người xưa cho rằng:
việc ra đời của các vĩ nhân thường kèm theo sự xuất hiện của ngôi
sao lớn. Các nhà chiêm tinh nghiên cứu sự chuyển động của các ngôi sao
trên bầu trời, để đoán biết vận mệnh của nhân loại. +
Chúng tôi đến bái lạy Người: Đang khi người Do-thái dửng dưng,
thì lương dân lại tha thiết tìm kiếm và sẵn sàng đón nhận Người. Như
thế là ứng nghiệm sấm ngôn về một tôn giáo phổ quát trong thời tận
thế (x. Is 49,23). + Vua Hê-rô-đê bối rối: Bối rồi ví thiếu lòng tin và đa
nghi, lo sợ ngai vàng của mình sắp bị Đấng Cứu Thế tước đoạt. + Cả
thành Giê-ru-sa-lem xôn xao: Xôn xao đồng nghĩa với hoảng hốt.
Đây là thái độ của các đầu mục Do-thái tại Thủ đô đã hùa theo vua
Hê-rô-đê chống lại Đấng Cứu Thế.
- C 4-6: + Mời các Thượng tế và luật sĩ: Là các thành phần trí thức trong dân Do-thái đương thời, am
tường Kinh Thánh: Thượng tế có nhiệm vụ tế lễ trong Đền thờ, còn
kinh sư hay luật sĩ là những thày dạy Luật Mô-sê. Hê-rô-đê hy vọng họ sẽ
dựa theo Thánh Kinh mà cho ông biết nơi sinh chính xác của Đấng Cứu
Thế. + Họ trả lời…: Có một sự đối nghịch về thái độ với
Đấng Cứu Thế: Các Thượng tế và kinh sư là những người am tường Kinh
Thánh, biết rõ nơi sinh của Đấng Cứu Thế, nhưng không muốn đón nhận
Người, đang khi dân ngoại lại đi tìm kiếm Người mà thờ lạy. +
Thành Bê-lem miền Giu-đê: Bê-lem thuộc xứ Giu-đê, miền Nam nước
Do-thái. + Vì ngươi là nơi Vị lãnh tụ chăn dắt Ít-ra-en dân Ta sẽ ra
đời: Câu này nhắc đến lời tuyên sấm của ngôn sứ Mi-kha về một
Đấng sẽ đến thống lãnh Ít-ra-en theo ý của Thiên Chúa (x. Mk 5,1 tt), và
đáp ứng nguyện vọng của tất cả các chi tộc, giống như vua Đa-vít xưa
(x. 2 Sm 5,2).
- C 7-8: + Bí mật mời các nhà chiêm tinh đến: Hê-rô-đê hỏi cặn kẽ về ngày giờ ngôi sao xuất hiện, vì
muốn biết Hài Nhi Cứu Thế được mấy tuổi để dễ tim ra và giết hại
Người. Sau đó ông đã ra lệnh cho quân lính đến Bê-lem và vùng phụ cận,
giết tất cả các trẻ em nam từ hai tuổi trở xuống tính theo ngày giờ
ngôi sao xuất hiện. + Xin quí ngài đi dò hỏi tường tận về
Hài Nhi: Qua các nhà chiêm tinh ngoại giáo này, Hê-rô-đê muốn
điều tra để biết chính xác Hài Nhi Cứu Thế là ai. + Khi đã tìm thấy, xin báo
lại cho trẫm, để trẫm cũng đến bái lạy Người: Hê-rô-đê nói
dối các nhà chiêm tinh là muốn tìm biết Hài Nhi Cứu Thế để đến bái lạy,
nhưng trong thâm tâm ông muốn tiêu diệt để trừ hậu hoạ.
- C 9-10: + Trông thấy ngôi sao họ hết sức vui mừng: Các nhà chiêm tinh vui mừng vì nhờ có ánh sao dẫn đường,
họ hy vọng sẽ tìm thấy Hài Nhi Cứu Thế.
- C 11-12: + Họ vào nhà: Chắc chắn sau
đêm Chúa Giáng Sinh, hai ông bà Giu-se Ma-ri-a không tiếp tục sống giữa
cánh đồng Bê-lem, vì thiếu các phương tiện tối thiểu cho các sinh
hoạt ăn ở và nuôi dưỡng Hài Nhi mới sinh. Có lẽ hai ông bà đã thuê
nhà tại thị trấn Bê-lem để ở tạm. + Sấp mình bái lạy Người: Khi
ma quỉ cám dỗ Đức Giê-su bái lạy nó, Người đã khẳng định chỉ bái
lạy một mình Thiên Chúa mà thôi (x. Mt 4,9-10). Qua hành động bái lạy
này, các nhà chiêm tinh gián tiếp tin
nhận Hài Nhi Giê-su chính là Đấng Cứu Thế Con Thiên Chúa. +
Lấy vàng, nhũ hương và mộc dược mà dâng tiến: Theo phong tục
Đông Phương, các nhà chiêm tinh dâng lên Hài Nhi ba lễ vật là vàng, nhũ
hương và mộc dược, là đặc sản quê hương của các ngài. Vàng tượng
trưng cho đức Tin, nhũ hương cho đức Cậy và mộc dược cho đức Mến. Theo
các giáo phụ thì Vàng ám chỉ tước vị Vua, Nhũ hương ám chỉ tước vị
Tư Tế, và Mộc dược ám chỉ về cuộc tử nạn và mai táng của Hài Nhi
sau này. + Họ được báo mộng...và đi lối khác mà về xứ minh:
Hê-rô-đê dù nham hiểm quỷ quyệt đến đâu, cũng không thể phá bỏ được
chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Những kẻ chống đối Thiên Chúa
sớm muộn cũng sẽ chuốc lấy thất bại mà thôi.
4. CÂU HỎI:
1) Bạn biết gì về Bê-lem
là nơi sinh của Đức Giê-su ? 2) Hê-rô-đê Đại Vương và Hê-rô-đê An-ti-pha
có liên quan đến cuộc đời của Đức Giê-su thế nào ? 3) Các vị chiêm
tinh gia là ai? Dựa vào bằng chứng nào mà người ta quả quyết có 3
vị ? Truyền thuyết dân gian kể tên ba vị đó là gì ? 4) Tại sao vua
Hê-rô-đê bối rối và dân thành Giê-ru-sa-lem xôn xao ? 5) Vua Hê-rô-đê mời
các thượng tế và luật sĩ đến làm gì ? 6) Tại sao Vua Hê-rô-đê lại cặn
kẽ hỏi các nhà chiêm tinh về thời giờ ngôi sao xuất hiện ? 7) Tại sao
Tin Mừng nói các nhà chiêm tinh vào nhà đang khi trước đó cho biết Chúa
sinh ra trong hang đá chăn giữ súc vật
ban đêm và đuợc đặt nằm trong máng cỏ ? 8) Qua hành động bái
lạy Hài Nhi mới sinh, các đạo sĩ biểu lộ niềm tin thế nào về Hài
Nhi này ? 9) Ba lễ vật là vàng, nhũ hương và mộc dược mà các đạo
sĩ dâng tiến Hài Nhi mang ý nghĩa thế nào ? 10) Tại sao các đạo sĩ chọn
đi lối khác về quê hương ? 11) Chúng ta có thể rút ra bài học gì
trước sự thất bại của vua Hê-rô-đê khi ông muốn sát hại Hài Nhi Cứu
Thế ?
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: “Họ vào nhà,
thấy Hài Nhi với thân mẫu là bà Ma-ri-a, liền sấp mình bái lạy
Người, rồi mở bảo tráp, lấy vàng nhũ hương và mộc dược mà dâng
tiến” (Mt 2,11).
2. CÂU CHUYỆN: HÃY CHO NGƯỜI
NGHÈO QUẦN ÁO TỐT.
Một buổi chiều nọ, anh con trai thấy một người hành khất
áo quần rách nát đứng xin trước cổng nhà. Anh ta liền vào trong nhà
lấy ra một bộ quần áo và cho người ăn xin. Bộ đồ này đã cũ và bị
rách toạc một miếng ngay tại đầu gối, nên từ lâu anh ta không thèm mặc.
Nhận được bộ đồ cũ, người hành khất rất mừng và cám ơn rối rít, vì
tuy đã cũ nhưng nó vẫn còn tốt hơn bộ quần áo ông ta đang mặc rất nhiều.
Sau đó lão hành khất liền mặc ngay bộ đồ mới vào người. Còn anh
thanh niên thì cảm thấy vui mừng vì đã làm được một việc thiện.
Mấy tháng sau, một hôm người hành khất kia lại đến ăn xin.
Lần này ông ta mặc bộ đồ lành lặn và tương đối còn mới. Anh thanh
niên thấy ông lão mặc bộ đồ màu sắc giống như quần áo của mình liền
hỏi: “Sao ông lại có bộ đồ mới kia ?” Lão hành khất tươi cười trả
lời: “Thì đây cũng là quần áo của cậu đó ! Số là cách đây một
tuần, khi tôi mặc bộ quần áo anh cho hôm trước, đến xin thì gặp ba
anh. Thấy tôi mặc bộ đồ đã rách, ông cụ hỏi xem ai cho. Tôi trả lời
là một anh ở trong nhà ông. Ông im lặng rồi vào nhà đem ra bộ đồ tôi
đang mặc đây và nói: “Xin lỗi ông, lần trước con tôi đã lấy lộn bộ
đồ rách bỏ đi mà cho ông. Hôm nay tôi thay nó để biếu ông bộ quần áo tốt này”.
Sau khi người hành khất ra về, chàng thanh niên lập tức vào
nhà tìm cha và cằn nhằn tại sao ông lại đem cho bộ đồ anh còn đang sử
dụng. Bấy giờ người cha liền ôn tồn nói rằng: “Con ơi, cha rất vui khi
thấy con biết thương người và cho người nghèo quần áo để mặc. Nhưng cha
biết con còn nhiều quần áo không dùng đến mà sao con không cho ? Lần
sau nếu cho ai thứ gì, thì con nên cho những gì còn dùng được. Chứ
nếu cho họ bộ đồ đã rách thì họ làm sao có thể mặc được hả con ?”
3. SUY NIỆM:
1) “Chúng tôi đã thấy vì
sao của Người xuất hiện bên phương Đông”: Hôm nay,
các vị chiêm tinh hay cũng gọi là đạo sĩ từ phương xa đã nhận ra dấu hiệu Đấng
Cứu Thế mới sinh qua sự xuất hiện của ngôi sao lạ trên bầu trời. Theo ánh sao
chỉ đường dẫn lối, các ngài đã lên đường tìm kiếm Đấng Cưu Thế gặp được Chúa
Giê-su. Ánh sao chiếu sáng trên bầu trời đêm tối, đã giúp các đạo sĩ tìm ra
hướng đi. Rồi lời Chúa trong Sách Thánh cũng là ánh sao giúp các ngài sáng lên
niềm tin vào Chúa. Nhưng chính Hài Nhi Cứu Thế Giê-su mới thực là ánh sáng giúp
các ngài tin và theo một con đường mới để về quê hương.
Ngày nay có nhiều người cũng đang đi tìm Chúa. Nhưng họ không biết
đường và phương hướng nào, nên cần có những ánh sao soi đường dẫn lối. Ngày nay
Chúa không còn dùng ngôi sao xuất hiện trên trời, nhưng muốn mỗi tín hữu phải trở
thành một vì sao soi dẫn cho mọi người đến với Chúa. Ngôi sao chỉ chiếu sáng
khi chính bản thân nó có ánh sáng. Người Kitô hữu chỉ chiếu sáng khi chính cuộc
sống của họ phản chiếu ánh sáng nhận được từ nơi Thiên Chúa như lời Đức Giê-su:
“Cũng vậy, ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy
những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên
trời” (Mt 5,16).
Người tín hữu phải chiếu ánh
sáng hy vọng vào ơn cứu độ của
Chúa. Niềm hy vọng vào một “trời mới đất mới” cho chúng ta thêm sức mạnh để
tích cực góp phần xây dựng xã hội chúng ta đang sống ngày một tốt đẹp hơn, an
toàn sạch đẹp hơn, công bình nhân ái hơn. Niềm hy vọng vào hạnh phúc thiên đàng
cũng giúp chúng ta nhận định đúng giá trị của tiền bạc và của cải đời này để sử
dụng chúng làm sáng danh Chúa và phục vụ tha nhân. Niềm hy vọng chính là ánh
sáng làm con người và cuộc đời của chúng ta ngày thêm tươi đẹp.
Người tín hữu phải chiếu ánh
sáng tin yêu: Tin cậy Chúa và yêu thương tha nhân. Tin yêu để xây dựng một
cuộc sống chan hoà tình Chúa tình người. Tin yêu để sẵn sàng tha thứ và hoà giải
với nhau. Tin yêu để vượt qua mọi bóng tối các mối bất hoà chia rẽ và thù hận.
Người tín hữu còn phải chiếu ánh
sáng công bình, bác ái giữa đời thường. Lòng yêu mến Chúa phải được thể
hiện qua tình thương đối với người đồng loại. Chính qua ánh sáng hy vọng, tin
yêu, công bình bác ái nói trên mà lương dân sẽ dễ dàng nhận biết và tin yêu
Chúa để cùng chúng ta đi trên con đường mới để về quê trời hưởng hạnh phúc ở đời
sau.
2) “Chúng tôi tìm đến bái
lạy Người”: Để tìm gặp Chúa, các đạo sĩ đã
phải từ giã gia đình để tiếp nhận những điều bất ngờ: Họ nghĩ Đấng Cứu
Thế là con của nhà vua tại kinh thành hoa lệ, nhưng Hài Nhi Cứu Thế
lại không sinh ở nơi giàu sang phú quý, mà nơi một cái hang chăn giữ chiên
cừu trong hình hài một trẻ thơ yếu đuối nghèo khó.
Lễ Hiển Linh là lễ Chúa tỏ mình ra. Tuy nhiên không phải ai cũng
gặp được Chúa và được hưởng ơn cứu độ. Các kinh sư và biệt phái tuy hiểu biết
Thánh Kinh, nói rõ về nơi Đấng Cứu Thế sẽ sinh là thành Bê-lem, nhưng họ lại
không gặp được Chúa, vì họ chỉ hiểu biết Kinh Thánh mà không muốn làm theo lời
Chúa dạy bảo. Về phần bạo vương Hê-rô-đê tuy muốn tìm biết Hài Nhi Cứu Thế
nhưng đã không gặp được Người. Vì ông ta tìm Chúa không phải để tin yêu, nhưng
để giết hại Người. Trái lại, những người nghèo hèn là các mục đồng ở ngoại ô
Bê-lem, và những đạo sĩ từ phương xa tìm đến Giê-ru-sa-lem lại gặp được Người.
Những người này dù không thông hiểu lời Chúa trong Sách Thánh, nhưng đã gặp
được Chúa vì có tâm hồn đơn sơ chân thành. Người tín hữu chúng ta hôm nay cũng
chỉ gặp được Chúa nếu chúng ta biết noi gương các đạo sĩ để luôn chân thành
muốn tìm kiếm Chúa, sẵn sàng dấn thân phục vụ Chúa đang hiện thân nơi những
người nghèo khó, tàng tật và bị bỏ rơi…
3) “Rồi mở bảo tráp, lấy
vàng, nhũ hương và mộc dược mà dâng tiến”: Năm xưa, các nhà đạo sĩ đã tìm Chúa và đã gặp được Đấng Cứu Thế mới
sinh. Họ đã bái quỳ trước một Hài Nhi bé nhỏ yếu đuối nghèo hèn. Họ đã mở bảo
tráp lấy bàng, nhũ hương và mộc dược mà dâng tiến cho Người. Những lễ vật
này là biều hiệu của lễ vật nội tâm là đức Tin, đức Cậy và đức Mến.
Khi dâng vàng, các đạo sĩ đã tuyên xưng vương quyền của Hài Nhi Cứu Thế;
Dâng nhũ hương các ngài bày tỏ lòng tin Người là vị tư tế của Giao Ước
Mới; Dâng mộc dược là đề cao mầu nhiệm Tử Nạn và Phục Sinh của
Đấng Thiên Sai. Khi xuống thế làm
người, Con Thiên Chúa đã mang thân phận của một người nghèo: đã sinh ra trong
hang chiên cừu nghéo khó cùng cực, đã chọn cha mẹ là hai ông bà Giu-se và Ma-ri-a
nghèo khó, đã sống hoà đồng với các người lao động nghèo hèn tại làng quê
Na-da-rét. Người đã sống nghèo khó đến độ không có hòn đá gối đầu. Người còn
hứa ban hạnh phúc Nước Trời cho những ai có tinh thần nghéo khó, những người đang
bị đói khát, tù đầy, bệnh tật và bị người thân bỏ rơi…
Hôm nay, Chúa vẫn đang hiện diện giữa chúng ta qua tha nhân là hình
ảnh của Chúa và mời gọi chúng ta quảng đại hiến thân phục vụ Người nơi những
người nghéo khó bên cạnh chúng ta Chúa muốn chúng ta trao tặng cho Chúa những
món quà cụ thể như cơm, áo, gạo, tiền… kèm theo tinh yêu thương và thái độ chân
thành phục vụ họ cách vô vụ lợi… Vậy chúng ta sẽ dâng tặng cho Chúa những gì
trong mùa Giáng Sinh này?
4. THẢO LUẬN: 1) Bạn có khi
nào cảm phục một ai đó trong số các nhà khoa học gia, nghệ sĩ, diễn
viên điện ảnh, thầy cô hay bạn bè ngoại giáo không ? 2) Ngày nay bạn
có thấy Chúa tiếp tục tỏ mình ra nơi những người lương dân đang sống bên
cạnh mình hay không ? 3) Bạn sẽ làm gì để trở thành ngôi sao lạ dẫn
đường cho các bạn bè ngoại giáo này tìm thấy Chúa là Đấng Thiên Sai và
tin theo Người ?
5. NGUYỆN CẦU:
LẠY CHÚA GIÊ-SU. Biết bao lần chúng con đến nhà thờ nhưng
đã không gặp được Chúa. Đạo con giữ mới chỉ là những thói quen; Lễ
con dâng chỉ là những lời kinh sáo rỗng nhàm chán; Của cải con cho
người nghèo chỉ là những thứ đồ hư vất bỏ… Nhưng con lại tưởng mình
là đạo đức thánh thiện và đang làm chứng nhân cho Chúa. Ước gì hôm
nay con nhận ra những thiếu sót của mình, để của lễ con dâng phải là
thứ vàng đức tin quý giá, là nhũ hương của đức cậy khiêm nhu, là mộc
dược của lòng hy sinh mến Chúa nồng nàn. Hy vọng Chúa sẽ vui nhận,
và ban muôn hồng ân cho chúng con. Để khi gặp được Chúa, như các vị đạo
sĩ xưa, chúng con sẽ thể hiện đức tin vào Chúa, sẽ tránh xa những thói
gian ác lọc lừa để làm theo Lời Chúa dạy, sống hiệp nhất xin vâng và
phục vụ tha nhân hầu sau này sẽ được về quê trời hưởng hạnh phúc với
Chúa muôn đời.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON
LM ĐAN VINH - HHTM