(Gioan 20,19-23 – Lễ
Hiện Xuống ABC)
1.- Ngữ cảnh
Dựa theo bố cục tổng
quát của TM Ga, đoạn văn này nằm
trong chương 20 là chương cuối cùng của phần B (Sách về Giờ của Đức Giêsu), kèm theo lời kết cho thấy mục tiêu của
tác giả khi viết Tin Mừng.
Trong tình trạng tranh
tối tranh sáng lúc bình minh, Maria Mácđala đi đến mộ Đức Giêsu và thấy mộ đã được
mở và trống không. Cho tới nay, có hai sứ điệp của Đức Giêsu Phục Sinh đã bao
trùm ngày Phục Sinh (20,2.17). Vào
buổi chiều ngày dài này, Đấng Phục Sinh đã đến gặp các môn đệ Người.
Người gặp họ khi họ đang ở trong phòng cửa đóng kín: họ còn đang ở trong mộ của
nỗi sợ hãi, chứ chưa được thông dự vào sự sống của Người. Đức Giêsu đã đưa các môn
đệ ra khỏi tình trạng bế tắc do phản bội, do sợ hãi. Và Người đã trao sứ mạng
để các ông trở thành sứ giả đi khắp nơi mà ban ơn tha tội, ban sự bình an.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia
thành hai phần:
1) Lời chào “bình an” thứ nhất với việc chứng
minh sự Phục Sinh (20,19-20);
2) Lời chào “bình an” thứ hai với sứ mạng và trao ban Thánh Thần (20,21-23).
3.- Vài điểm
chú giải
- Vào chiều ngày ấy, ngày thứ nhất trong tuần (19): Cuộc hiện ra xảy
ra tại Giêrusalem vào ngày Chúa Nhật. Bản văn Lc 24,33-49 cho biết Đức Giêsu hiện ra vào
buổi chiều, bởi vì vào lúc xế chiều, Người đã ngồi ăn với hai môn đệ tại Emmau,
rồi hai ông đã trở lại Giêrusalem ngay trước khi Đức Giêsu hiện ra với cả nhóm.
Rất có thể tác giả dùng từ ngữ “ngày ấy”
mà chỉ ngày Chúa Nhật ấy là có ý coi đây là ngày cánh chung, ngày mà Đức Giêsu
ban Thánh Thần để ở lại mãi mãi với các môn đệ (xem thêm cc. 14,20; 16,23.26).
Tác giả dùng công thức
“Ngày thứ nhất trong tuần” cho cả hai
lần hiện ra ở đây (lần sau đúng một tuần sau) rất có thể là vì ông muốn nhắc
đến thói quen của các Kitô hữu cử hành Thánh Thể vào “ngày thứ nhất trong tuần”
(Cv 20,7; xem thêm 1 Cr 16,2).
- các cửa đều đóng kín (19): Lý do nêu ra trong bản văn là “vì
các ông sợ người Do-thái”, nhưng có lẽ tác giả cũng còn muốn cho thấy là thân
thể Đức Giêsu Phục Sinh có thể đi qua cửa đóng kín.
- Bình an cho anh em (19): Trong tiếng
Do-thái, shâlôm (= bình an) là một
lời chào thông thường. Nhưng trong văn cảnh long trọng ở đây, lời của Đức Giêsu
có ý nghĩa khác, không phải chỉ là “Cầu chúc anh em được bình an”, như thể họ
còn phải chờ đợi sự bình an đến trong tương lai. Ở
đây, lời Đức Giêsu nói là một nhận định về thực tại: chắc chắn họ đang có sự
bình an của Người.
- Như Chúa Cha đã sai Thầy (21): Trong các Tin Mừng khác, cũng có lời sai đi này (x. Mt 28,19; Lc 24,47), nhưng ở đây, mẫu mực cho việc sai đi là quan hệ của Con
với Cha (một đề tài thần học của Ga,
xem 17,18).
- Người thổi hơi vào các ông... Anh
em hãy nhận lấy Thánh Thần (22): Hành động này nhắc nhớ đến làn hơi sáng
tạo của Thiên Chúa trong St 2,7. Làn hơi của Đức Giêsu chính là Thánh Thần. Trên thập
giá, Người đã “trao Thần Khí” (paredôken
to pneuma; trước đây, vì không quan tâm đến thần học của tác giả Ga, người ta đã dịch là “trút hơi thở”)
(19,30): Người đã trao ban Thánh Thần cho những người đứng dưới chân thập giá,
đặc biêt cho thân mẫu Người, tượng trưng Hội Thánh hoặc Dân mới của Thiên Chúa,
và cho người môn đệ Người thương mến, tượng trưng các Kitô hữu.
- Anh em tha tội cho ai ...; anh
em cầm giữ ai... (23): Câu này có vọng lại Ds 22–24 bằng tiếng Hy Lạp (Bản LXX), Truyện Bilơam: chẳng hạn so
sánh Ga 20,23 // Ds 22,6 LXX. Theo bản văn Híp-ri, vua Balác xác tín rằng “kẻ nào bị
ông nguyền rủa thì mắc họa/bị nguyền rủa” (Ds
22,6 Híp-ri), nghĩa là sẽ bị nguyền rủa qua lời nguyền Bilơam tuyên bố. Ông
không bận tâm với quyền năng của Thiên Chúa Israel, là Đấng có đồng ý thì
Bilơam mới có thể chúc phúc hoặc nguyền rủa (Ds 22,12; 23,8). Ngược lại, trong bản văn Hy-lạp, lời của Balác ở
22,6 có một ý nghĩa hàm hồ: có thể hiểu “được phúc” (eulogêntai) và “mắc họa/bị nguyền rủa” (kekatêrantai) vừa theo nghĩa một hậu quả sẽ xảy ra trong tương lai
gần (bản văn Híp-ri: dạng phân từ và vị hoàn), vừa theo nghĩa một lời thú nhận
không chủ ý rằng chỉ những ai đã được Thiên Chúa chúc phúc hoặc bị Thiên Chúa
nguyền rủa thì Bilơam mới có thể chúc phúc hoặc nguyền rủa. Đó chính là điều
Thiên Chúa đã nói với Bilơam: “Ngươi không được đi với chúng! Không được nguyền
rủa dân đó, vì nó đã được chúc phúc (estin
gar eulogêmenon)”. Bilơam không thể nguyền rủa kẻ đang sống trong tình trạng
được chúc phúc, từ đó chúng ta hiểu là kẻ nào ông nguyền rủa được, kẻ ấy đã
đang bị Thiên Chúa nguyền rủa rồi. Balác đã nói như thế và ông có lý, mà ông không
biết.
Dạng hoàn thành apheôntai (“được
tha”) và kekratêntai (“bị cầm giữ”) ở
Ga 20,23 có thể được hiểu như thế.
4.- Ý nghĩa của bản văn
Sau khi Đức Giêsu đã bị
bắt, bị xử tử và được an táng, tình trạng của các môn đệ thật đáng thương: các
ông về nhà đóng kín tất cả các cửa, vì sợ người Do-thái. Các ông hoàn toàn mất
bình an. Trong khi các môn đệ còn ở trong tình trạng bế tắc cùng cực, Đức Giêsu
Phục Sinh đã đến với họ, tự mình đi vào ngày giữa lòng tình trạng thê thảm đó.
* Lời chào “bình an”
thứ nhất với việc chứng minh sự Phục Sinh (19-20)
Khi hiện ra với các ông, điều đầu tiên Đức Giêsu nói là: “Bình an cho
anh em!” (19,19). Nhưng nói mà thôi thì không đủ, Người còn cho các môn đệ thấy
rằng các ông có Người đang sống giữa các ông. Người không chỉ nói về bình an,
Người cung cấp nền tảng chắc chắn cho lời của Người: các vết thương. Vậy Người
chính là Đấng đã chết trên thập giá, nhưng nay Người đã trở lại với cuộc sống trong
tư cách vừa là Đấng Tử Nạn vừa là Đấng chiến thắng cái chết. Các vết thương
cũng là dấu chỉ cho thấy tình yêu vô biên của Người. Trong cùng một lúc,
Người cho các ông được gặp Người như Đấng Chịu Đóng Đinh và Đấng Phục Sinh. Do
đó, Người chính là sự bình an và nguồn mạch tuôn trào niềm vui cho các môn đệ
(c. 20).
Đoạn văn này còn có một ý nghĩa sâu xa hơn. Lời Đức Giêsu chào “Bình an
cho anh em” (eirênê hymin) khiến chúng
ta nghĩ đến ý nghĩa Thần Khí học của đoạn văn: eirênê lần đầu tiên được dùng ở Ga
14,27, ngay sau một lời nhắc đến Đấng Bảo Trợ sẽ đến (14,26). Câu tiếp theo
“Thầy ra đi và đến với anh em” (14,28) là một quy chiếu về việc Đức Giêsu ra đi
và Thánh Thần đến (x. 16,7). Như thế, lời Đức Giêsu nói về sự bình an của Người
ở c. 27 rất có thể cũng phải được giải thích như là một quy chiếu về việc ban
Thánh Thần trong tương lai, do chỗ các động từ “Thầy để lại” (aphiêmi) và “Thầy ban” (didômi) đều có nghĩa tương lai, cũng như
“Thầy đến” (erchomai) ở c. 28. Các
lời hứa – sai Thánh Thần, ban bình an, và lại đến – nay đã được hoàn tất.
Một chi tiết nữa cũng liên hệ đến Thánh Thần, là “cạnh sườn” (pleura); từ này tạo một liên kết với
cuộc đóng đinh và hành vi người lính đâm cạnh sườn Đức Giêsu (19,31-36). Rất có
thể coi nước chảy từ cạnh sườn Đức Giêsu là một biểu tượng về Thánh Thần: nước
và Thánh Thần được đặt song song tại 3,5 và cái chết của Đức Giêsu là một điều
kiện cần thiết để Thánh Thần đến (7,39; 16,7). Ở 7,38-39, tác giả Ga minh nhiên đồng hóa những dòng nước
hằng sống, sẽ chảy ra từ Đức Giêsu, với Thánh Thần. Điều này được hoàn tất ở
19,34. Bây giờ, khi Đức Giêsu cho các môn đệ xem cạnh sườn bị đâm, Người không
chỉ chứng minh Người là con chiên Vượt Qua đã chết trên thập giá, nhưng nay đã
sống lại; Người còn cho thấy rằng Thánh Thần đã tuôn trào ra từ Người và bây
giờ có thể được ban cho các môn đệ.
* Lời chào “bình an”
thứ hai với sứ mạng và trao ban Thánh Thần (21-23)
Sau khi chúc bình an lần thứ hai, Đức Giêsu nói đến việc sai phái các môn
đệ (c. 21). Trước đây, tác giả TM IV cũng đã nói đến một việc sai phái
các môn đệ tương tự việc Chúa Cha sai phái Đức Giêsu (13,20; 17,18). Thiên Chúa
sai phái Đức Giêsu đi nói các lời của Thiên Chúa và giảng dạy (3,34; 7,16;
8,26; 12,49; 14,24), để thực hiện ý muốn và các công việc của Thiên Chúa (4,34;
5,30.36; 6,38-39; 9,4), và cứu độ thế gian (3,17). Từ ngữ “như” (kathôs) ở 20,21 khiến nhớ lại nhiều đoạn
trong TM IV cho hiểu rằng các môn đệ
phải làm việc như các ngôn sứ của Đức Giêsu, y như Đức Giêsu đã làm việc như là
ngôn sứ của Cha Người. Như Đức Giêsu đã thấy Chúa Cha, họ cũng đã thấy Đức
Giêsu; qua việc thấy Đức Giêsu, họ cũng đã thấy Chúa Cha (14,7-9). Bởi vì Đức Giêsu
đã cho họ tất cả được biết những gì Người nghe được từ Chúa Cha (15,15), những
gì họ đã nghe được từ Đức Giêsu bây giờ là lời của Chúa Cha (14,24). Các lời (rhêmata) đã được Chúa Cha ban cho Đức
Giêsu, Đức Giêsu đã ban cho các môn đệ (17,8). Như Đức Giêsu đã làm chứng về những
gì Người đã thấy và nghe (3,11.32), các môn đệ Người cũng phải làm chứng về
Người (15,27). Như một cành nho không thể sinh hoa trái tự mình (aph’ heautou) nhưng chỉ nhờ ở lại trên
cây nho, họ cũng phải ở lại trong Đức Giêsu, “vì không có Thầy, anh em chẳng
làm gì được” (15,4-5). Đức Giêsu đã ban cho họ vinh quang (doxa) mà Chúa Cha đã ban cho Người (17,22). Như vậy, các đặc điểm
ngôn sứ trong sứ mạng của Đức Giêsu nay được gán cho các môn đệ sau khi Người
đã chết, sống lại và lên trời vinh hiển.
Nói xong, Người “thổi hơi vào” (enephysêsen)
các môn đệ; nói như thế là tác giả giải thích rằng hơi thở của Đức Giêsu là
Thánh Thần. Y như sự cố Thần Khí xuống đã đánh dấu khởi đầu sứ vụ của Đức Giêsu
(1,32-33), nay ân ban Thần Khí khai mạc sứ mạng của các môn đệ. Trước đây Đức
Giêsu đã nói đến Thần Khí sự thật, Đấng ở lại (menei) với các môn đệ (14,17) như Ngài đã ở lại (emeinen) trên Đức Giêsu (1,32). Đây là
Thần Khí ngôn sứ, theo như Đức Giêsu đã giải thích: “Người sẽ không tự mình nói
điều gì, nhưng tất cả những gì Người nghe, Người sẽ nói lại, và loan báo cho
anh em biết những điều sẽ xảy đến (16,13). Ở đây nhiều đặc tính ngôn sứ được áp
dụng cho Thần Khí: Ngài vừa nghe vừa nói/loan báo những điều giấu kín, và Ngài
là trung gioan truyền tải sứ điệp. Ngài sẽ làm chứng cho Đức Giêsu và như thế
cung cấp cho các môn đệ một điển hình (15,26-27).
Động từ emphysian (“thổi hơi
vào”) ở Ga 20,22 đã được dùng tại St 2,7 LXX là chỗ nói về việc Thiên Chúa
thổi hơi mang sức sống vào Ađam. Dựa vào đó, có những nhà chú giải đã giải
thích rằng, chức năng của Thần Khí là rửa sạch các môn đệ khỏi tội lỗi và làm
cho họ thành một cuộc tạo dựng mới. Nhưng ở đây Thần Khí được ban cho các môn
đệ không phải vì lợi ích cá nhân họ, nhưng vì những kẻ khác.
“Anh em tha tội ai... anh em cầm giữ
ai...” (c. 23): Câu này nói đến quyền tha và buộc tội. Dưới ánh sáng của
Chu kỳ Bilơam (Ds 22–24), các thì
hoàn thành của Ga 20,23 không có ý
nói là Thiên Chúa cứ “nhắm mắt” phê chuẩn bất cứ hành vi tha tội và cầm tội nào
mà các môn đệ tự do công bố. Đúng hơn, các thì này diễn tả điều này: nhờ Thánh
Thần ngôn sứ được ban cho các ông, các môn đệ sẽ có khả năng tha tội cho những
người và chỉ cho những người mà Thiên Chúa hoặc Đức Giêsu đã tha tội cho.
+ Kết luận
Ân ban căn bản của Đấng Phục Sinh là sự
bình an (20,19.21.26). Ngay trong các diễn từ cáo biệt, Đức Giêsu đã hứa ban sự
bình an này cho các môn đệ. Người có tư cách để ban sự bình an này vì Người về
cùng Chúa Cha (14,27) và vì Người thắng thế gian (16,33). Nay Người đã thực sự
thắng cái chết, là dấu chỉ tối hậu về sức mạnh tiêu diệt của thế gian, và đã
thật sự lên cùng Chúa Cha. Người đã đạt tới mục tiêu của Người, Người lại đang
sống giữa các môn đệ trong tư cách là Đấng chiến thắng. Chính Người là nền tảng
của sự bình an của các ông, hoặc nói theo thư Êphêxô, “chính Người là bình an của chúng ta” (Ep 2,14). Các ông có thể ra đi thực hiện chương trình cứu độ, nhớ
Thánh Thần của Người.
5.- Gợi ý suy niệm
1.
Đức Kitô mà chúng ta gặp trong Lời Chúa, trong các buổi cử hành Phụng vụ, trong
giờ cầu nguyện giữa cộng đoàn anh chị em, là Đức Kitô Phục Sinh. Người ban cho
chúng ta bình an và Thánh Thần, và sai chúng ta đi hân hoan chia sẻ niềm tin và
niềm hy vọng ấy. Chúng ta cần phải để Người đưa chúng ta ra khỏi ngôi mộ của sợ
hãi, của ích kỷ, của những sai lầm, để tin tưởng đi vào lòng thế giới. Quả
thật, Đức Giêsu không giải thoát các môn đệ khỏi những ưu phiền (x. 16,33),
nhưng ban cho chúng ta sự vững vàng, không lay chuyển và sự tin tưởng an bình.
2.
Các môn đệ của Đức Giêsu cần xác tín rằng Đấng đang sống giữa họ cũng chính là
Đấng đã chết trên thập giá; các ông cũng phải nhận biết rằng Người vẫn mang
những vết tích của cuộc Thương Khó, dù đã sống lại; Người chính là “Con Chiên
đứng như thể đã bị giết” (Kh 5,6).
Các vết thương ấy là dấu chứng tỏ tình yêu vô biên của Người, nhưng cũng là dấu
cho thấy sự tàn ác của loài người: dấu của tình yêu vô biên, để họ luôn luôn
tin tưởng dấn thân; dấu của sự tàn ác con người, để họ có cái nhìn thực tế,
biết rằng mình dấn thân vào trong thế giới nào.
3.
Khi ban Thánh Thần trên các môn đệ, Đức Giêsu đã thổi hơi vào các ông và bảo:
“Hãy nhận lấy Thánh Thần”. Thánh Thần chính là làn hơi của Thiên Chúa, Người
như là gió. Người ta không thấy gió, người ta không biết gió bắt nguồn từ đâu
và đến đâu thì dừng lại. Cho dù các nhà khí tượng học có bao trước được các
trận bão, ta vẫn có cảm tưởng mình bị một sức mạnh vừa huyền bí vừa mạnh
mẽ bao trùm. Gió thổi và gây tiếng động. Gió bẻ gãy và nhổ bật lên. Gió tàn
phá, nhưng cũng làm cho đất đai ra phì nhiêu. Có khi gió quạt mát, có lúc gió
thiêu đốt. Về làn gió Thánh Thần cũng thế. Người mạnh mẽ, Người len lỏi vào mọi
sự. Nếu chúng ta mở lòng ra với Người, Người sẽ bẻ gãy, Người nhổ tung và phá
hủy tất cả những gì chống lại tình yêu Thiên Chúa; Người cũng làm cho các con
tim nên dồi dào phong phú. Người liên tục làm việc trong lòng chúng ta, như
thánh Phaolô đã nói: “Thiên Chúa đã sai Thần Khí của Con mình đến ngự trong
lòng anh em mà [liên tục] kêu
lên : "Áp-ba, Cha ơi!” (Gl 4,6).
4.
Nếu chúng ta chờ đợi một sự biến đổi đột ngột, tức khắc và lạ lùng sau khi được
rửa tội, chắc chắn chúng ta phải thất vọng. Thánh Thần triển khai các hành động
của Người như một hạt giống nhỏ bé trong tim chúng ta. Hạt giống ấy sẽ lớn lên
dần dần trong âm thầm thinh lặng, nhưng chắc chắn sẽ kết quả.
Lm FX Vũ Phan Long, ofm