CuỘc
thương khó cỦa ĐỨc Giêsu
(Mt 26,14–27,66 – Lễ Lá - A)
1.- Bố cục
Bản
văn công bố trong CN Lễ Lá có thể chia thành
1) Khởi đầu cuộc Thương Khó (26,1-16):
Cảnh
1 Mt 26,14-16 – Giuđa phản bội Đức
Giêsu
2) Bữa tiệc Vượt Qua cuối cùng của Đức
Giêsu (26,17-29)
Cảnh
2 Mt 26,17-19 – Các môn đệ chuẩn bị
Lễ Vượt Qua
Cảnh 3 Mt 26,20-25 – Đức
Giêsu tiên báo việc phản bội
Cảnh 4 Mt 26,26-29 – Bữa tối
cuối cùng (Khai mạc Tiệc Thánh Thể)
3) Tại Ghếtsêmani (26,30-56)
Cảnh 5 Mt 26,30-35 – Đức
Giêsu tiên báo sự phân tán và hứa qui tụ lại
Cảnh
6 Mt 26,36-46 – Đức Giêsu cầu
nguyện tại Núi Ôliu
Cảnh
7 Mt 26,47-56 – Đức Giêsu bị bắt
4) Tại dinh Thượng tế (26,57–27,10)
Cảnh 8 Mt 26,57-58 – Đức
Giêsu và Phê rô vào dinh Thượng tế
Cảnh 9 Mt 26,59-66 – Luận
tội trước tòa Thượng tế
Cảnh 10 Mt 26,67-68 – Cuộc
hành hạ đầu tiên
Cảnh 11 Mt 26,69-75 – Phêrô
chối Đức Giêsu
Cảnh
12 Mt 27,1-2 – Đức Giêsu bị nộp cho Philatô
Cảnh
13 Mt 27,3-10 – Giuđa không trả tiền
lại được và tự tử
5) Đức Giêsu bị người Rôma kết án
(27,11-31)
Cảnh 14 Mt 27,11-26 – Cuộc xử
án trước tòa Philatô
Cảnh
15 Mt 27,27-31 – Đức Giêsu bị đánh
đòn và chế nhạo
6) Đức Giêsu bị đóng đinh (27,32-61)
Cảnh
16 Mt 27,32-38 – Đường thập giá và
đóng đinh
Cảnh
17 Mt 27,39-44 – Chế nhạo Con Thiên
Chúa
Cảnh
18 Mt 27,45-50 – Đức Giêsu từ trần
Cảnh
19 Mt 27,51-54 – Thiên Chúa trả lời
cho các chết của Đức Giêsu
Cảnh
20 Mt 27,55-56 – Các phụ nữ tại chân
thập giá
Cảnh
21 Mt 27,57-61 – Đức Giêsu được an
táng
7) Đức Giêsu sống lại và hai kết thúc của
Tin Mừng Mt (27,62–28,20)
Cảnh
22 Mt 27,62-66 – Đặt lính canh mồ
Cảnh
23 Mt 28,1-8 – Mồ trống
Cảnh
24 Mt 18,9-10 – Đức Giêsu hiện ra
với các phụ nữ
Cảnh
25 Mt 28,11-15 – Kết 1: Lính canh mồ
tung tin thất thiệt
Cảnh
26 Mt 28,16-20 – Kết 2: Lệnh ra đi
truyền giáo
2.- Chú giải và Ý nghĩa của bản văn
Cuộc
Thương Khó là giai đoạn trọng yếu trong cuộc đời của Đức Giêsu. Đây cũng là
trang đen tối trong cuộc đời của Người. Các môn đệ bị bắt chợt, bởi vì họ chờ
đợi Thầy họ lên ngai vàng chứ không phải là cái chết thập giá.
* Mt 26,14-16 – Giuđa phản bội Đức
Giêsu
Phân
đoạn này được liên kết với 26,1-5: một trong Nhóm Mười Hai (x. “các môn đệ”, c.
1) là Giuđa đi gặp các đối thủ của Đức Giêsu, là các thượng tế (x. cc. 3-5), và
khởi động biến cố đã được Đức Giêsu tiên báo ở c. 2. Không có liên kết trực
tiếp nào với truyện xức dầu.
Phân
đoạn này cũng được liên kết với phân đoạn đến sau: Ở 26,47-50, Giuđa sẽ đưa kế
hoạch ra thực hiện; ở 26,21-25, một lần nữa hắn sẽ đóng một vai trò quyết định;
ở 27,3, hắn sẽ trả ba mươi đồng bạc lại cho các thượng tế. Trong phân đoạn
26,14-16, Giuđa cũng hầu như là diễn viên duy nhất, vì ở c. 15b, các thượng tế
có phản ứng là do hắn gợi ý.
Các
lý do khiến Giuđa phản bội đã không được nói đến. Tác giả Mt chỉ ghi
chính xác rằng đây là “một người trong Nhóm Mười Hai” (26,14). Rõ ràng biết Đức
Giêsu và bước theo Người vẫn không đảm bảo gì (x. 7,21-23; 25,12). Có một sự
tương phản nổi bật giữa Giuđa và người phụ nữ xức dầu cho Đức Giêsu (x.
26,6.13): hắn làm do tham lam, còn bà ấy làm do lòng thành kính. Quả thật, lý
do khiến Giuđa phản bội, theo cả bốn Tin Mừng, là tiền bạc; nhưng Giuđa
lại bán Thầy chỉ với “ba mươi đồng bạc” là giá mạng sống của một tên nô lệ (x. Xh
21,32). Khi ghi nhận điểm này, tác giả Mt cho thấy Đức Giêsu bị hạ nhục
đến độ nào, cũng như hành vi phản bội thì ty tiện đến đâu.
Nhưng
ý nghĩa tiên quyết của bản văn là mọi sự đã được Đức Giêsu tiên báo và nay xảy
đến đúng theo ý muốn của Thiên Chúa (26,1-2). Bóng tối khủng khiếp của cuộc
Thương Khó nay bắt đầu với sự phản bội của Giuđa, một trong Nhóm Mười Hai. Dọc
theo bài tường thuật cuộc Thương Khó, tác giả cho thấy gương mặt của Đức Giêsu
luôn ở trung tâm: Người chịu đau khổ; Người biết đau khổ có ý nghĩa gì; Người liên
tục đẩy các biến cố đi tới và cung cấp một lời giải thích. Các độc giả cần phải
hiểu rằng đây là một câu truyện về Đức
Giêsu, chứ không phải là một câu truyện về các đối thủ của Người. Điều này
có nghĩa là Giuđa cũng chỉ là một gương mặt nhỏ bé sẽ thỉnh thoảng xuất hiện mà
thôi.
* Mt 26,17-19 – Các môn đệ chuẩn bị
Lễ Vượt Qua
Bài
Mt này song song với bài Mc
(14,21-22) gồm có ba giai đoạn: chuẩn bị (cc. 17-19), nghi thức Do Thái (cc.
20-25), nghi thức mới của Kitô giáo (cc. 26-30).
Bài
tường thuật của Mt, bắt đầu với một chi tiết về thời gian: “Ngày thứ
nhất trong tuần Bánh Không Men” (26,17). Đức Giêsu kết thúc kinh nghiệm cộng
đoàn với các môn đệ bằng một bữa ăn tối từ biệt. Bữa ăn này được các tác giả
TM I đặt vào trong khung cảnh cuộc cử hành lễ Vượt Qua. Ngày thứ nhất
trong tuần Bánh Không Men … lễ Vượt Qua (26,17): Thật ra, Lễ Bánh Không Men
bắt đầu sau lễ Vượt Qua; nhưng tác giả Mt, cũng như Fl. Joseph (Bell. 5,99; Ant. 2.317; 17.2134; 18.29; 20.106) dùng tên này để gọi trọn lễ
mừng bắt đầu với lễ Vượt Qua. Ta thấy tác giả Mt dùng đồng thời hai kiểu
gọi này khiến chúng ta có thể coi là hai kiểu gọi này có cùng một ý nghĩa (x.
26,2). Các môn đệ đến thưa “với Đức Giêsu” (tô
Iêsou) và hỏi Người là họ phải dọn cho Người (“cho Thầy”, soi)
ăn lễ Vượt Qua ở đâu: chúng ta được nhắc rằng chúng ta đang bàn những chuyện
liên hệ đến Đức Giêsu và lễ Vượt Qua của
Người.
Đức
Giêsu vẫn làm chủ tình hình: Người lấy sáng kiến và bố trí việc cử hành lễ Vượt
Qua: Người không chỉ sai hai môn đệ (như trong Mc) mà là các môn đệ (“các môn đệ”, c. 17; “các anh”, c. 18) đi vào
thành Giêrusalem, vì đó là nơi duy nhất người ta có thể cử hành lễ Vượt Qua (x.
Đnl 16,16). Các ông đến nhà “một
người kia”: “Người kia”, ho deina, là
một người không cần nêu tên hay lý lịch ra ở đây (Mc nhấn mạnh hơn). Điều tác giả muốn cho thấy là chính Đức Giêsu
truyền lệnh. Người không phải là một kẻ biết trước cách lạ lùng những điều đáng
kể nhất sẽ xảy ra; Người truyền lệnh, và thế là điều Người nói đã xảy ra. Ngay
“một người kia” cũng chỉ biết nghe theo lệnh của Thầy. Nhà của ông ấy hoàn toàn
được dành cho Người sử dụng, chứ không chỉ vì nay đã gần kề lễ Vượt Qua và
Người cần một căn phòng. Ta thấy rõ: Người không biện minh cho lệnh truyền bằng
cách nói rằng là người lạ, Người không dễ tìm ra một nơi để mừng lễ Vượt Qua nay
đã gần kề; Người nói: “Thời của Thầy (ho
kairos mou) đã gần tới”. “Thời (kairos)”
của Người (Ga: “thời”; Ga
7,6.8; “giờ”: Ga 2,4; 7,30; 8,20;
12,23; 13,1; 17,1) chính là giai đoạn cuối cùng trong sứ mạng của Người, cuộc
Thương Khó. Người nói trong tư cách là người biết thời gian và cộng tác không
chỉ cách thụ động nhưng chủ động, tích cực vào việc làm cho chương trình Chúa
Cha đã hoạch định được hoàn tất.
Các
môn đệ đã làm như Đức Giêsu truyền lệnh (c. 19. xem các “công thức về hoàn tất”
trong Mt 1,20-25; 21,2-7; 28,15). Đối
với tác giả Mt, tư cách môn đệ chính
là thuộc về gia đình những anh chị em của Đức Giêsu, cùng thực thi ý muốn của
Cha trên trời (12,50). Do đó, cả nhóm môn đệ được sai đi và cả nhóm đã làm đúng
lệnh truyền: một sự vâng lời gương mẫu.
* Mt 26,20-25 – Đức Giêsu tiên báo
việc phản bội
Sau
câu mở đầu ngắn ngủi nói về thời gian và hoàn cảnh (c. 20), có một mẩu đối
thoại được kết cấu rất khéo. Đức Giêsu nêu lên một nhận định tổng quát là một
môn đệ sẽ phản bội Người (c. 21). Các môn đệ kinh ngạc phản ứng: “Chẳng lẽ con
sao, thưa Ngài?” (mêti egô eimi, kyrie)
(c. 22). Đức Giêsu cho một câu trả lời chính xác ở c. 23. Rồi Người củng cố lời
loan báo ở c. 24 bằng một tiên báo mới về đau khổ của Người và một lời lời
tuyên bố “khốn” đối với kẻ phản bội. Câu 25 nhắc lại c. 22: lần này Giuđa cũng
hỏi y như các anh em khác, nhưng gọi Đức Giêsu là “Rabbi, Thầy”: “Chẳng lẽ con
sao, thưa Thầy?” (mêti egô eimi, rabbi)
(c. 25). Với câu “Chính anh nói đó”, Đức Giêsu đã nói lời cuối cùng. Như thế,
Người nói lời đầu tiên và lời cuối cùng trong phân đoạn này. Lời Người nói ở
cc. 23-24 là lời dài nhất. Cách kết cấu của đoạn văn cho thấy rõ chính Đức
Giêsu, chứ không phải là các môn đệ hay Giuđa, đang làm chủ tình hình.
Chi
tiết về thời gian “chiều đến (opsias)”
mở đầu hai phân đoạn tiếp theo. Giờ đã
muộn, bởi vì phải ăn lễ Vượt Qua ban đêm (x. Xh 12,8. Theo tập tục, phải ăn xong trước nửa đêm). Đức Giêsu vào
bàn tiệc: Người nằm trên giường tiệc, theo đúng tập tục. Đang khi các ngài ăn,
có hai truyện xảy ra (cc. 21.26).
Bữa
tiệc đang diễn tiến, Đức Giêsu ngắt ngang để loan báo hơn là tố giác hành vi
phản bội và kẻ phản bội. Các môn đệ rất buồn (lypoumenoi sphodra). Từng người một đã hỏi “Chẳng lẽ con sao”, nghĩa
là “Chắc chắn không phải là con chứ? Chẳng lẽ lại có thể là con sao?”. Các ông
chưa bao giờ nghĩ rằng Đức Giêsu lại có thể bị phản bội, nên các ông hy vọng là
Đức Giêsu sẽ đưa ra một câu trả lời phủ định để các ông được miễn trách nhiệm. Và
các ông bày tỏ lòng tín nhiệm vào Người bằng cách gọi Người là “Thưa Ngài (=
Lạy Chúa, Kyrie)”
Vậy
kẻ phản bội là ai thì vẫn là một câu hỏi được bỏ ngỏ đối với các môn đệ. Thế là
Đức Giêsu loan báo một cách rõ ràng hơn: “Kẻ giơ tay chấm chung một đĩa với
Thầy, đó là kẻ nộp Thầy” (c. 23). “Đĩa, tryblion”
có lẽ là tên để gọi thứ bột nhão (paste) làm bằng các trái vả, táo, chà là,
hạnh đào, hạnh nhân, quế, trộn với rượu hay dấm rượu. Sau khi uống chén thứ
nhất, người ta chấm rau diếp và các thứ rau khác vào thứ bột này mà ăn. Tác giả
viết là “kẻ vừa mới chấm chung”, vì dùng động từ embapsas (aor. part. của embaptô,
“chấm vào”) khiến các môn đệ không thể hiểu mập mờ là bất cứ ai được.
Câu
24 gồm ba phần. Câu 24a là một lời tiên báo mới về cái chết của Con Người, đi
với 26,2. Động từ [h]ypagein, “ra đi; đi”, hiểu là tới cuộc
Thương Khó và cái chết. “Theo như lời đã chép”, tức theo Kinh Thánh, là kiểu
nói tổng quát hóa: Ngoại trừ một vài đoạn rõ ràng, điều quan trọng đối với Giáo
Hội tiên khởi là Kinh Thánh có làm chứng về cái chết của Đức Giêsu (x. 1 Cr
15,3-4). Chính xác tín này giúp cho các Kitô hữu tiên khởi tìm ra nhiều đoạn
trong Kinh Thánh nói về cái chết của Đức Giêsu. Câu 25b là một lời tuyên bố
“khốn” tương tự 18,7. Rõ ràng chương trình của Thiên Chúa không xóa tội cho con
người, kể cả tội của kẻ phản bội. Câu 24c thường được gọi là “câu tov” (thà...) theo kiểu nói Sêmít (x.
5,29-30; 18,8-9). Kiểu nói này nhấn mạnh tối đa trên tội của Giuđa: điều ông
sắp làm rõ ràng là một “tội trọng”. Cho dù ở đây không có ý gì rõ ràng nói đến
sự kết án đời đời dành cho Giuđa, ý tưởng đó vẫn bàng bạc: đoạn 18,8-9, trong
đó có chuỗi tương tự “khốn” và “thà”, có nói đến hỏa ngục và “lửa đời đời”.
Sau
lời tuyên bố trên của Đức Giêsu, c. 25 có nét gì đó quái gở, bởi vì cứ y như
thể Giuđa không hiểu Đức Giêsu có ý nói gì. Thái độ này hoàn toàn ngược lại với
nỗi buồn thê thảm nơi các môn đệ khác (c. 22). Giuđa cũng hỏi cùng một câu hỏi
như các bạn khác, chỉ có điều ông gọi Đức Giêsu là “Rabbi”, ông không thông hiệp với anh em. TM I rất cẩn thận trong việc dùng các danh hiệu mà gọi Đức Giêsu.
Kiểu thưa gửi “rabbi” không giống với
“thầy”, đây là kiểu tiêu biểu dành cho những người ở ngoài; chỉ Giuđa dùng kiểu
gọi này (ở đây và 26,49). Chúng ta nhớ đến 23,8, là nơi “rabbi” được nêu ra như một danh hiệu mà các kinh sư Do Thái yêu
thích, nên cộng đoàn Kitô hữu phải tránh. Vậy Giuđa đã ở bên ngoài rồi; cộng
đoàn có thể làm gì được cho ông nữa? Đức Giêsu đã ngắn gọn xác nhận câu hỏi của
Giuđa: “Sy eipas”. Câu này có thể
hiểu nhiều cách tùy ngữ cảnh: hoặc là “Chính
anh nói điều đó” (đó là lời anh nói, chứ không phải tôi), hoặc là một xác
nhận điều người khác đã nói (“Anh đã nói
ra điều đó”). Rõ ràng theo ngữ cảnh, Đức Giêsu xác nhận không chần chừ rằng
Giuđa sẽ là kẻ phản bội. Bằng chính những lời của mình, Giuđa lãnh trách nhiệm
về điều ông đã nói. Bản văn kết thúc với các lời này.
*
Mt 26,26-29 – Bữa tối cuối cùng (Khai mạc Tiệc Thánh Thể)
Như
với truyện thứ nhất vừa rồi ở c. 21, tác giả Mt nhắc đến hoàn cảnh bữa ăn (c. 26a), đưa vào bầu khí lễ Vượt Qua
Do Thái. Ngoài ra, các câu nói về bánh và về chén ở c. 26 và cc.27-28a hoàn
toàn song song. Chỉ đến cuối câu nói về chén, c. 28b, sự đối xứng này mới không
còn. Có thể nói toàn bản văn là một “báo” về những gì Đức Giêsu đã làm và đã
nói, chứ không nói đến việc các môn đệ đã ăn bánh uống rượu hoặc đã phản ứng
thế nào trước các lời Người nói.
Tác
giả Mt không kể toàn bộ nghi thức mà chỉ nhắc lại hai cử chỉ tiêu biểu
của đại lễ này: bẻ bánh và phân phát bánh (mở đầu); rót đầy chén lần nữa (kết
thúc), mỗi hành vi có kèm theo một công thức chúc tụng (eulogêsas: hiểu là “chúc tụng” Thiên Chúa. Đức Giêsu vẫn ở tại
trung tâm câu chuyện (tên “Giêsu” được nhắc lại).
Nghi
thức bẻ bánh (trong tiệc Vượt Qua, các đại lễ khác và hằng ngày) là việc của
người chủ gia đình. Thường các lời chúc tụng đọc trên bánh là: “Xin chúc tụng
Ngài…, lạy Thiên Chúa chúng con, vua vũ trụ, Ngài làm cho bánh đâm chồi từ mặt
đất”, Ber. 6,1). Đức Giêsu bẻ bánh và phân phát cho các môn đệ: hành vi
này khiến độc giả nhớ đến hai lần Người nhân bánh ra nhiều tại Galilê (Mt 14,19; 15,36). Khi làm cử chỉ này trước
mặt các môn đệ, Đức Giêsu muốn nói rằng nay giữa họ đã có một sự hợp nhất mới
về tương quan; họ cũng là một gia đình. Tuy nhiên, Đức Giêsu lại đọc những lời
khác với nghi lễ và truyền lệnh “hãy ăn”, khiến các môn đệ hiểu rằng đây là
chuyện bắt buộc chứ không tùy nghi. Ngoài ra, khung cảnh tiệc Vượt Qua với
chiên bị giết, khiến lời Đức Giêsu nói về “mình Người” có một âm vang hiến tế.
Nói cho cùng, Người không trao một tấm bánh nguyên, nhưng những mảnh bánh bẻ
ra, điều này tượng trưng thân mình Người sẽ phải bầm dập tan nát. Các môn đệ
“ăn mình” Đức Giêsu có nghĩa là nhận lấy cho mình vụ việc vì đó Người đã phải
chết, là cũng như Người, phải bẻ đời sống mình ra hầu phục vụ sự thiện hảo của
mọi người. Tuy nhiên, một ý nhắm đến cái chết của Đức Giêsu chỉ xuất hiện lần
đầu tiên với những lời giải thích Người nói sau này, tương đối còn mơ hồ với
bánh, rồi rõ ràng với chén.
Bữa
tiệc kết thúc bằng việc chủ nhà rót đầy chén rượu lần nữa rồi chuyền cho mọi
thành viên. Đây là chén đầy cuối cùng, người ta chuyền tay nhau mà uống. Lời
chúc tụng đọc trên rượu là: “Xin chúc tụng Ngài, lạy Thiên Chúa chúng con, vua
vũ trụ, Đấng tạo thành hoa quả của cây nho”. Trong trường hợp này, Đức Giêsu
cũng lại đọc những lời khác với nghi thức kèm theo một mệnh lệnh, “hãy uống”.
Rượu mà Đức Giêsu trao phải “nhắc lại” máu mà chẳng bao lâu nữa, Người sẽ đổ ra
trên thập giá. Nếu các môn đệ được mời uống máu Người có nghĩa là họ cũng phải
có khả năng đổ máu ra như Đức Giêsu. Chúng ta ghi nhận rằng các môn đệ được mời
uống chung một chén. Lý do: giao ước được đặt nến móng trên cái chết của Người;
tất cả những ai uống chén này thì thông phần vào cái chết của Người;cái chết
của Người liên kết tất cả lại với nhau.
Việc
bẻ bánh và uống chung một chén rượu như thế được liên kết với cái chết của
Người.
Trong
bản văn, c. 28 nhấn mạnh đến việc tha tội, thì có liên hệ không 1,21: Đức
Giêsu, là Đấng Emmanuel, sẽ cất tội đi cho dân chúng (x. 9,6.8). Câu 29 nhấn
mạnh đến tình bằng hữu giữa Đức Giêsu với các môn đệ thì liên hệ với 1,23: Đức
Giêsu, là Đấng Emmanuel, sẽ ở cùng các môn đệ (x. 28,20). Điều này cũng hàm
chứa ý tưởng về tình bằng hữu giữa các môn đệ với nhau (x. Mt 18).
* Mt 26,30-35 – Đức Giêsu tiên báo
sự phân tán và hứa quy tụ lại
Câu
30 là câu chuyển tiếp đưa ta từ bữa tiệc Vượt Qua ra cảnh trên Núi Ôliu. Các
câu 31-35 là một đoạn đối thoại gồm hai lời tiên báo của Đức Giêsu (cc.
31-32.34) và hai lời phản đối của Phêrô (cc. 33,35ab). Hai lời tiên báo được
liên kết bằng công thức chìa khóa “đêm nay” (cc. 31.34). Lời phản đối đầu của
Phêrô nhắm vào lời “vấp ngã” (skandalizesthai,
cc. 31.33 hai lần) của Đức Giêsu, còn lời phản đối thứ hai nhắm đến từ “chối” (aparneisthai, cc. 34-35). Một lời phản
đối tương tự của tất cả các môn đệ được bố trí theo cách giao hoán nhắc lại c.
31 và kết thúc phân đoạn (c. 35c). Sau này, hai lời tiên báo sẽ được kể lại
(cc. 56.69-75).
Cuộc
khổ nạn cũng như sự phản bội của các môn đệ không phải là chuyện tình cờ. Đức
Giêsu đã quan tâm báo trước cho họ: đây không còn phải là sự sa sút của một môn
đệ, nhưng là “tất cả” (pantes), chính
xác là “tất cả anh em”, những người môn đệ gần gũi nhất, trung thành nhất (c.
31). Họ sẽ xấu hổ vì đã ở với Người, vì đã tin vào các lời Người nói. Sự vấp
phạm của các môn đệ khi thấy Người bị bắt rồi bị kết án tử hình, cũng dễ hiểu.
Chính ngôn sứ Dacaria đã báo trước (Dcr
13,7). Tuy nhiên, Đức Giêsu cũng ban một sứ điệp hy vọng: cộng đoàn các môn đệ
sẽ lại được quy tụ sau tấn bi kịch; Đức Giêsu lại ban cho họ một điểm hẹn mới là
Galilê (c. 32), sau điểm hẹn là Nước của Chúa Cha (c. 29). Điểm này không loại
trừ điểm kia, nhưng lệ thuộc vào nhau. Đức Kitô Phục Sinh sẽ trở lại các nơi
Người đã hoạt động công khai để bằng tư cách Đấng Phục Sinh, chuẩn nhận cho các
lời Người đã loan báo. Đến đây, tác giả Mt
đã nối lời loan báo về sự phản bội của Phêrô (cc. 33-34). Ông đã phản đối kịch
liệt. Nhưng cũng chính ông đã phản bội Thầy ồn ào hơn những người khác. Cho dù
Phêrô tỏ ra như là phát ngôn nhân của nhóm môn đệ, ở đây ông đã phá vỡ tình
liên đới của nhóm, khi nói rằng cho dù “tất cả” (pantes) có vấp ngã vì Đức Giêsu, ông vẫn không sa sút. Ông là một
ngoại lệ lớn lao mà!
Điều
đáng ghi nhận là câu tiên báo trung tâm về cuộc hiện ra của Chúa Phục Sinh tại
Galilê ở c. 32 rõ ràng được tách khỏi phấn kết thúc lời tiên báo đầu. Thế nhưng
khi phản ứng, Phêrô không trả lời cho lời tiên báo này, mà chỉ phản ứng lại nửa
đầu của lời tiên báo thôi. Sau này, qua các phụ nữ, vị thiên sứ phải nhắc lại
nửa thứ hai cho các môn đệ (28,7.10). Rõ ràng các môn đệ đã không nghe được
phần này của lời tiên báo ở giữa. Nhưng chắc chắn độc giả không được bỏ qua.
Các độc giả phải nghe được lời loan báo về Phục Sinh và không được mất tinh
thần.
Đức
Giêsu đã nói thẳng với Phêrô bằng một tiếng “amen” mở đầu (c. 34). “Đêm nay” (en tautê tê nykti) đối lại với tiếng “chẳng bao giờ” (oudepoti) mạnh mẽ của Phêrô. Nội đêm
nay, ông sẽ chối Thầy không dưới ba lần. Như vậy, bằng câu trả lời ấy, Đức
Giêsu đã tách Phêrô khỏi nhóm môn đệ, nhưng theo cách tiêu cực. Phêrô không
những sẽ chạy trốn, mà còn chối Thầy đến ba lần! So với việc các môn đệ chạy
trốn, hành vi của ông tệ gấp đôi. “Chối” (aparneisthai)
có nghĩa là “kháng cự lại, không nhận, tuyệt giao, nói không, khước từ, đồng ý
từ bỏ”. Đối với người xưa, gà gáy là một cách chỉ giờ vào ban đêm. Giờ gà gáy
được coi như là giờ liền ngay nửa đêm, và như thế là còn một khoảng thời gian
dài trước lúc bình minh. Khi tiệc Vượt Qua kết thúc thì đã gần nửa đêm. Như
thế, khoảng hai hoặc ba giờ sau thì Phêrô chối Thầy.
Phêrô
long trọng phi bác lời Đức Giêsu: ông sẽ không chối Người bao giờ: “Dầu có phải
chết với Thầy” (c. 35)! Ở 16,21-24, một đoạn trong đó có các ngữ căn skandal- (vấp ngã) và aparneisthai (chối), Phêrô đã tìm cách
ngăn cản Đức Giêsu đừng nghĩ tới đau khổ; ông nói với giọng hẳn là hốt hoảng:
“Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy” (16,22). Đức Giêsu đã
trả lời ông bằng cách gọi ông là “tảng đá vấp” (skandalon) và đã kêu gọi các môn đệ hãy “chối” (aparneisthai) chính mình. Dường như
Phêrô chẳng học được bài học nào cả. Các môn đệ khác cũng không hơn gì (x.
26,35).
* Mt 26,36-46 – Đức Giêsu cầu
nguyện tại Núi Ôliu
Truyện
Đức Giêsu cầu nguyện tại Vườn Ghếtsêmani rất cô đọng. Các câu 36-38 giới thiệu
khung cảnh và lệnh Đức Giêsu truyền cho ba môn đệ canh thức với Người. Ba môn
đệ này được tách riêng ra, nhưng ta không thấy sự khác biệt nào giữa hai nhóm
môn đệ. Ba đoạn ngắn sau (cc. 39-41, 42-43, 44-45a) có cùng cấu trúc và cách
diễn tả như nhau. Những từ quan trọng là “canh thức” (grêgorein: 3 lần), “cầu nguyện” (proseuchesthai: 5 lần) và “với” (meta: cc. 36.38.40). Đoạn văn này gợi cho độc giả nhớ tới truyện
Đức Giêsu thay đổi hình dạng trên núi (17,1; x. 26,30), vì Người cũng đưa ba
môn đệ ở đây đi. Độc giả cũng nhớ lại mẩu đối thoại của Đức Giêsu với bà mẹ các
con ông Dêbêđê, trong đó có nói đến uống chén của Đức Giêsu (20,22). Còn lời
cầu nguyện của Đức Giêsu nhắc nhớ tới Kinh Lạy Cha.
Bản
tường thuật này rất thật, nhưng cũng có tính dụ ngôn. Đức Giêsu nhận định về
hoàn cảnh của Người trước mặt các môn đệ (ít ra trước mặt những người được đánh
giá cao nhất) lúc này có thể nghe Người cho dù không hiểu Người. Đây là một
kinh nghiệm Đức Giêsu chấp nhận đến cùng vì vâng phục Chúa Cha và Người trình
bày cho các môn đệ như là chương trình sống của Người.
Đức
Giêsu đưa các môn đệ đến một thửa đất gọi là Ghếsêmani (tên Hípri có nghĩa là
“ép dầu”). Người bỏ các môn đệ lại đàng sau mà không giao cho họ việc gì cả,
chỉ đưa ba môn đệ chọn lọc đi theo. Mt bỏ tên hai người con ông Dêbêđê
để làm nổi gương mặt Phêrô. Cảnh này nhắc nhớ đến truyện hiển dung (17,2-8). Trên
núi cao, các môn đệ nhìn thấy Đức Giêsu trong tư cách Thiên Chúa; ở đây họ trải
nghiệm về Người trong nỗi phiển muộn của con người. Tác giả đưa vào cơn hấp hối
bằng một động từ rất ý nghĩa, “bắt đầu” (erxato): động từ này đã được
ngài dùng để loan báo những khúc quanh quyết định trong hoạt động của Đấng Cứu
thế. Ghếtsêmani không chỉ đơn giản là một khúc quanh, nhưng mở ra giai đoạn
chung kết của chương trình cứu thế. Lúc này, tâm trạng của Đức Giêsu là buồn
rầu, lo sợ, khắc khoải; sự chắc chắn và cương quyết Người vẫn tỏ ra nay như đã
tan biến cả. Người hoang mang xao xuyến, cần có ai để tâm sự, cần một nơi để
nương tựa (“canh thức với Thầy”: 26,38.40). Người diễn tả nỗi khắc khoải bằng
những lời Kinh Thánh (x. Tv 41,6.12; 42,5 LXX). Đây là cảm giác về cái chết, về
thất bại, về kết cục bất công và không vinh quang: perilypos đã có nghĩa tối thượng cấp là “buồn rầu cùng cực”, nay
còn được tăng thêm bằng cụm tử “đến chết” được (heos thanatou). Đây là
một hoàn cảnh tâm lý không sao chịu nổi. Từ heos ở đây không rõ, vì có
hai nghĩa: nghĩa mục đích (buồn đến mức muốn chết), nghĩa hậu quả (buồn có thể
làm cho chết).
Đức
Giêsu đã mời ba môn đệ “canh thức với Thầy” (cc. 38.40). Không phải chỉ ở đây
mà ngay từ đầu, Đức Giêsu đã nhấn mạnh đến đòi hỏi hiệp thông này (“đi cùng với
các ông”, c. 36; “đưa theo Người”, c. 37). Theo Mt, “canh thức” là thái
độ riêng của người tín hữu (x. 6,13; 24,37-51; 25,1-13). Nhưng ba môn đệ không
thể “canh thức và cầu nguyện” được. Ở trên núi Hiển dung cũng như ở đây, Đức
Giêsu chờ đợi ba môn đệ làm một điều gì đó đặc biệt, nhưng họ đều không làm
được. Trong tình trạng kiệt quệ, Người đã “sấp mặt xuống đất” (26,39):
Hẳn là tác giả cũng muốn nói đến tình trạng kiêt quệ của Đức Giêsu, như Mc
(14,35); tuy nhiên, “sấp mặt xuống đất” là sự “phủ phục” nhằm bày tỏ sự tôn
kính đối với một người nào (x. St 17,3.17; Ds 14,5; 16,4; …), ở
đây là “phủ phục” trước nhan Thiên Chúa để cầu nguyện. Cảm nhận về thất bại,
nỗi đau khổ, lo sợ khắc khoải không thể lung lạc lòng tin của Đức Giêsu; Người
vẫn quay về với Thiên Chúa và gọi là Cha, hẳn vẫn là tiếng Abba quen
thuộc, Người vẫn giữ được sự thân mật với Thiên Chúa: Người gọi Thiên Chúa là
“Thưa Cha của con” (pater mou) (c. 42), để bày tỏ thái độ con cái thẳm
sâu. Người vẫn tin tưởng vào thánh ý của Thiên Chúa và ký thác vào tay Thiên
Chúa, như Người đã từng khuyến khích các môn đệ (x. 6,10), dù lúc này nỗi đớn
đau cay đắng chồng chất đã được gom lại thành hình ảnh “chén” (x. 20,22). Lần
này, không phải là Satan (4,1-11) hoặc Phêrô (16,23) gợi ý cho Người tránh đi,
mà là chính lòng dạ của Người. Tuy nhiên, Người cũng chiến thắng vì Người luôn
đặt ý Người sau thánh ý Chúa Cha. Chính vì thế, cuối cùng Người lại tìm lại
được sự vững vàng và làm chủ được tình thế; Người bình thản ra gặp các đối thủ
(c. 46).
*
Mt 26,47-56 – Đức Giêsu bị bắt
Bản
văn này có ba cảnh nhỏ: Đức Giêsu bị bắt do cái hôn của Giuđa (cc. 47-50);
người đầy tớ vị thượng tế bị chém đứt tai (cc. 51-54); các lời bình phẩm Đức
Giêsu nói với dân chúng và nhận xét kết thúc (cc. 55-56a). Có những từ móc nối
làm cho bản văn nên cô đọng: đám đông được “các thượng tế và kỳ mục” sai đến
(c. 47) và từ “bắt” (cc. 48.50) đưa chúng ta trở lại với khởi đầu của bài tường
thuật về cuộc Thương Khó (26,3-4).Giuđa lại gọi Đức Giêsu là “rabbi” như ở 26,25. Họ “tra tay bắt (epebalon tas cheiras epi)” Người, việc
này đã được Người tiên báo (17,22; x. 26,45).
Hành
vi bắt Đức Giêsu được mở ra bởi Giuđa, “một người trong Nhóm Mười Hai” (c. 47;
x. 26,14), cái kiểu gọi mà Hội Thánh tiên khởi phải ghi nhớ với sự buồn phiền
và nhục nhã. Tên phản bội đi đến với một nhóm đông người, mang gươm và gậy, do
các thành viên vị vọng của Thượng Hội Đồng gửi đến. Hành vi mà người tông đồ
làm là hôn Thầy (c. 50), một cử chỉ thường môn sinh làm để bày tỏ lòng quý mến
và kính trọng. Tác giả Mt ghi là ông
hôn thắm thiết (katephilêsen). Đức
Giêsu gọi ông là etairos, “đồng
nghiệp, bạn”: Mt đã sử dụng từ này ở
20,13 và 22,12, lần đầu như một cách nói để giữ khoảng cách, khẳng định vị trí
trên dưới, lần sau với giọng đe dọa. Vậy đây không phải là một từ để nói về
tình bạn chân thật, mà là một từ mỉa mai. Rồi Đức Giêsu cho biết rằng chuyện
này chẳng bất ngờ đối với Người; Người nói: “Bạn đến đây vì mục đích này, nghĩa
là để phản bội tôi (ep’ ho parei)”
(c. 50). Thật ra có nhiều cách giải thích câu này, nhưng giải thích không như là
một thách thức, cũng không phải là một đọan tuyệt dứt khoát, nhưng là một lời
trách pha lẫn hy vọng, là đơn giản nhất.
Đức
Giêsu vừa nói xong, thì họ “tra tay bắt Người” (c. 50b). Từ “bàn tay” (cheir) khiến độc giả nhớ lại lời tiên
báo của Đức Giêsu ở 17,22 và 26,45.
Một
môn đệ (Phêrô: Ga 18,10) liền vung gươm bảo vệ Người, chém đứt tai người
đầy tớ của thượng tế (c. 51). Chỉ có TM Mt nhấn mạnh rằng Đức Giêsu phản
đối dùng vũ lực, vì con đường của vũ lực không giải quyết được gì, mà lại còn
có thể làm hại chính người sử dụng. Câu 52b, “tất cả những ai cầm gươm sẽ chết
vì gươm”, nhắc lại câu đối nghĩa thứ năm trong Bài Giảng trên núi, “Đừng chống
cự người ác” (5,39). Nếu muốn, Đức Giêsu có thể điều khiến “mười hai đạo binh (legiôn) thiên thần” mà bảo vệ Người (c.
53). Một “đạo binh” lúc đó gồm 5.600 người; toàn quân đội của hoàng đế là 25
“đạo binh”. Vậy Đức Giêsu có thể gọi khoảng 70.000 thiên thần đến trợ giúp
Người, nhưng Người từ khước chứng tỏ quyền lực của Người. Điều này khiến các
độc giả nhớ đến chước cám dỗ thứ hai ở 4,5-7, khi Đức Giêsu từ chối nhờ các
thiên thần trợ giúp, nếu như Người nhảy từ nóc Đền Thờ xuống. Do vâng phục
Thiên Chúa, Con Thiên Chúa, có tất cả quyền lực trên trời dưới đất, đã từ chối
biểu dương quyền lực của Người. Đến đây, Đức Giêsu kết thúc các lời Người nói
với các môn đệ bằng cách quy chiếu về Kinh Thánh. Cũng giống như ở 12,26 và
22,43, “nhưng như thế thì (pôs oun)”
đưa vào một câu hỏi mà thính giả phải trả lời. Người cho hiểu rằng nếu Người không
vâng theo ý muốn của Thiên Chúa và nếu Người làm một cuộc biểu dương quyền lực
của Thiên Chúa, Kinh Thánh mang lời chứng về chương trình của Thiên Chúa không
thể ứng nghiệm được.
Rồi
Người quay ra nói với đám đông “mang gươm giáo gậy gộc” (c. 47): Người là một
tên cướp sao? Mỗi ngày Người vẫn ngồi giảng dạy trong Đền Thờ, tức là một công
việc được nhìn nhận (x. 21,23-24). “Ngày ngày” (kath’ hêmeran) cho hiểu là không phải chỉ vài ngày.
Tác
giả kết thúc phân đoạn với một nhận xét: “Tất cả sự việc này xảy ra
là để ứng nghiệm những lời chép trong Sách Các Ngôn Sứ” (c. 56).
Công thức này tương ứng với câu mở của lời trích thứ nhất về Kinh Thánh nên
trọn ở 1,22 (“Tất cả sự việc này đã xảy ra, là để ứng nghiệm lời xưa kia Chúa
phán qua miệng ngôn sứ”) và tạo ra một cấu trúc đóng khung cho toàn thể câu
truyện về Đức Giêsu: phải hiểu cuộc đời Đức Giêsu từ đầu đến cuối như là một sự
ứng nghiệm Kinh Thánh. “Các ngôn sứ” đây có thể hiểu rộng ra là các bản văn
Kinh Thánh (Cựu Ước). Đây là chìa khóa để hiểu cuộc đời Đức Giêsu.
Bản
văn kết thúc với c. 56b: “Bấy giờ các môn đệ bỏ Người mà chạy trốn hết”. Các
độc giả đã được chuẩn bị cho sự cố này rồi, ở 26,31. Người chăn chiên đã bị
đánh; đàn chiên bị tan tác là hậu quả đương nhiên.
Chúng
ta ta ghi nhận từ đầu cho đến cuối, Đức Giêsu làm chủ biến cố. Một cách rất uy dũng, Người phản ứng lại với Giuđa
(c. 50a), với các môn đệ quá nhiệt thành (cc. 52-54), và với đám đông vũ trang
đến bắt Người (c. 55). Người nêu bật quyền lực thần linh của Người, cho dù vì
muốn vâng phục Cha Người, Người không biểu dương quyền lực này (c. 53). Vẻ uy
hùng của Đức Giêsu trong Mt được diễn
tả rõ nét hơn trong Mc. Nhu thế, bài
tường thuật Mt bắc một cấy cầu đưa
tới bài tường thuật Ga 18,1-11.
*
Mt 26,57-58 – Đức Giêsu và Phêrô vào dinh Thượng tế
Đoạn
dẫn nhập ngắn này được liên kết với cc. 48, 50, 55 bởi động từ “nắm lấy, bắt
lấy” (krateô) và gợi nhớ đến 26,3-4,
vị tại đây các nhà lãnh đạo dân chúng đã “nhóm họp” trong “dinh của vị thượng
tế”. Câu 57 dọn đường cho cc. 59-66, c. 58 dọn đường cho cc. 69-75.
Những
kẻ đi bắt Đức Giêsu điệu Người đến dinh thượng tế Caipha (c. 57). Các kinh sư
và kỳ mục đã tề tựu về đó, nhưng đây không phải là một cuộc gặp gỡ chính thức
của Thượng Hội Đồng. Chúng ta phải chờ đến sáng hôm sau mới thấy: ngay từ sớm,
“toàn thể Thượng Hội Đồng” (c. 59) đã họp lại, có lẽ vẫn tại nhà
Caipha, để cứu xét vụ việc.
Bây
giờ chúng ta để ý đến Phêrô: ông theo Đức Giêsu “xa xa” (c. 58). Khoảng cách như
thế liên kết với động từ “bước theo” (akoloutheô)
chuẩn bị các độc giả đi đến phân đoạn cc. 69-75. Phêrô cũng đến dinh (aulê) của vị thượng tế và “vào bên trong”.
Sau 26,3, các độc giả vẫn hiểu aulê
là “dinh”, nhưng đến c. 69, họ lại ghi nhận rằng Phêrô ngồi “bên ngoài” en tê aulê, thường được dịch là “ngoài
sân”. Phải chăng Phêrô đã di chuyển trong khi Đức Giêsu bị tra vấn? Không phải.
Chính cái nhìn của người tường thuật đã di chuyển: lúc đầu, nhìn diễn tiến câu
truyện từ Ghếtsêmani, ngài ghi nhận Phêrô “vào bên trong”, nhưng ở c. 69, nhìn
từ phòng họp Thượng Hội Đồng, ngài thấy Phêrô ngồi “bên ngoài”. Vậy theo Mt, Phêrô ngồi ở đâu? Vì aulê vừa có nghĩa là cái sân vừa có
nghĩa là quần thể các tòa nhà quanh sân, tác giả Mt có hai cách nhìn: ở c. 58, ngài muốn Phêrô phải ở gần tối đa với
sự cố trong Thượng Hội Đồng, có thể để có một chứng nhân tận mắt. Tuy nhiên, ở
c. 69, Phêrô phải ở ngoài, nơi “người đầy tớ gái, paidiskê” và những người khác đang ở đó, và từ đó ông dễ dàng chạy
ra ngoài.
*
Mt 26,59-66 – Luận tội trước tòa Thượng tế
Lời
kết tội đến nhanh (cc. 59-66) và như thế là chấm dứt phiên tòa Do Thái và tôn
giáo. Tác giả Mt mô tả khái quát.
Trước tiên có một cuộc thẩm vấn dựa theo các lời tố cáo của các chứng nhân (cc.
59-61). Như vậy, cuộc thẩm vấn gồm hai thì: a) cứu xét các lời kết tội (cc.
61-63a) và các nghi vấn (cc. 63b-64); b) bản án do thượng tế tuyên bố (cc.
65-66). Cuối cùng bản án đã được công bố không phải trên những gì Đức Giêsu đã
nói hoặc đã làm, nhưng trên những gì người khác đã nghĩ và nói về Đức Giêsu. Và
họ đã làm đúng thể thức vì “hai người” làm chứng (cc. 60-61; x. Đnl
19,15). Lời tố cáo có thể có giá trị nhất đối với những người xử án là tố cáo
Đức Giêsu là Mêsia giả hiệu; thật ra Người không bao giờ tuyên bố như thế,
nhưng không khó gì mà không suy ra được là Người nhận mình là “Mêsia”, là Đấng Thiên
Chúa sai đến. Thật ra nếu Đức Giêsu là Mêsia theo kiểu quân sự chính trị mà dân
chúng đang chờ mong thi không sao; đàng này Người lại là Mêsia kết án giới chức
và các vị thầy chính thức của Do Thái giáo. Họ không chống Đấng Mêsia, nhưng
Đấng Mêsia không theo hứơng của các vị thầy Do Thái đã xác định.
Một
lần nữa, tác giả nhắc đến “các thượng tế”, tức nhóm nổi bật trong Thượng Hội
Đồng và “toàn thể Thượng Hội Đồng” (c. 59). Vậy Hội Đồng tối cao, thời ấy đã có
71 thành viên, đã nhóm họp chính thức. Ngay từ đầu, họ đã tìm những chứng gian
để chống Đức Giêsu. Họ không tìm một cuộc xử công minh, nhưng chỉ nhắm đạt cho
được cái chết của Đức Giêsu như họ đã dự tính (x. 26,4).
Thượng tế đã nhắc lại dưới dạng câu hỏi lời
tuyên xưng của Phêrô tại Xêdarê: “Ông có phải là Đấng Kitô Con Thiên Chúa
không?” Đây là đỉnh cao hoặc tổng hợp của Kitô học Mt, được đặt vào miệng của vị quan tòa để nêu bật sự mù quáng chủ
ý, tội lỗi của ông và của dân ông. Tác giả Ga
cho tổng trấn Rôma tuyên bố về tư cách vua Mêsia của Đức Giêsu cho người Do
Thái (x. Ga 19,14), còn tác giả Mt đặt vào miệng uy quyền tôn giáo tối
cao của xứ. Dù sao, Đức Giêsu không phải là Mêsia theo kiểu ái quốc như các nhà
chức trách và đám đông vẫn chờ đợi, hoặc nhà ảo thuật như Satan gợi ý, nhưng là
Con Thiên Chúa, ngoan ngoãn đi theo tiếng nói và các đề nghị của Ngài. Tuy
nhiên, câu trả lời của Đức Giêsu còn quan trọng hơn; Người không nhắc lại danh
hiệu “Mêsia” hoặc “Con Thiên Chúa”, tuy có chấp nhận cách gián tiếp, nhưng nại
đến một danh hiệu khác và những sấm ngôn còn minh nhiên hơn. Người loan báo,
như cho các tông đồ trong bài diễn từ cánh chung, một quang cảnh sẽ khẳng định
tính khách quan của các danh hiệu được gán cho Người: “Con Người ngự bên hữu
Đấng Toàn Năng” (Đn 7,13; x. Tv 110,1), tức là chia sẻ quyền lực với
Thiên Chúa. Thế là Thượng Hội Đồng nối tiếp vị thượng tế, quyết định về cái
chết của Đức Giêsu. Tuy nhiên, bản án của họ chẳng những không chặn đứng được
điều Đức Giêsu vừa nói, mà còn mở đường cho nên thành sự. “Từ nay” (ap’arti)
là công thức nêu bật một sự đoạn tuyệt với quá khứ và khởi đầu một thời đại
mới. Thời đại mới này bắt đầu vào lúc họ tuyên bố cái chết của Đức Giêsu. Kể từ
lúc đó, các đối thủ của Đức Giêsu ca bài hát chiến thắng, nhưng Đấng Mêsia cũng
bắt đầu khẳng định về bản thân Người cho tới cuộc Quang lâm chung cuộc.
* Mt 26,67-68 – Cuộc
hành hạ đầu tiên
Cuộc
hành hạ sau đó rất có thể là ở trong sân dinh thượng tế. Trò chế nhạo họ bày ra
là một trò chơi của trẻ em. Họ bịt mắt tù nhân, đang rồi bảo đoán xem ai đã
đánh mình. Ở đây hẳn còn có một lý do khác để họ chơi trò này: Đức Giêsu đã
nhận và bị kết tội là “ngôn sứ”. Đức Giêsu đã chấp nhận chương trình của Người
tôi tớ, các sỉ nhục và chế nhạo, với ý thức và với nghị lực. Sứ mạng của vị
ngôn sứ quả thật không dễ.
*
Mt 26,69-75 – Phêrô chối Đức Giêsu
Đoạn
này được liên kết với cc. 58-59: “Ông Phêrô ... vào bên trong ngồi”. Cũng giống
trường hợp cc. 36-46, đoạn văn này gồm ba phần. Giữa một câu giới thiệu ngắn
(c. 69a) và một kết luận nặng nề (cc. 74b-75), có ba lời chối (cc.
69b-70.71-72.73-74a). Các nơi chốn thay đổi. Các nhân vật cũng thay đổi. Tầm
mức của hành vi cũng thay đổi.
Tác
giả cắt ngang truyện Đức Giêsu để bắt đầu một phân đoạn mới. Phêrô đã được nhắc
đến ở c. 58, nay trở thành tâm điểm của sự chú ý. Trong cuộc xử án, ông ngồi “ở
bên ngoài” trong “dinh/tòa” (aulê);
độc giả dễ dàng nghĩ rằng đây là sân ngoài phòng xử. Một người đầy tớ gái vô
danh (paidiskê) đến nói với ông rằng
ông đã “ở với” ông Giêsu, người Galilê. “Với Đức Giêsu” là từ chìa khóa của
toàn chương 26, vì trong đó, đề tài là việc “ở với Đức Giêsu” của các môn đệ. Khi
nào tác giả nói đến việc các môn đệ “ở với” Đức Giêsu, là nhắm tới sự suy sụp
của các ông (26,23.38.40.51); còn khi nói tới việc Đức Giêsu “ở với” các môn
đệ, tác giả muốn nói đến sự trung tín của Người (26,18.20.36; x. c. 29).
Phêrô
phản ứng mạnh mẽ và chối mọi sự. Ông không muốn biết đến những gì người tớ gái
vừa nói. “Trước mặt mọi người, emprosthen
pantôn” cho hiểu rằng một đàng lời trò chuyện là công khai, một đàng nhắc
tới 10,33: “Ai chối (arnêsetai) Thầy
trước mặt (emprosthen) thiên hạ, thì
Thầy cũng sẽ chối người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời”. Đây là một lời nhắc nhở rất nặng cho độc giả, vì gợi
đến cuộc phán xét chung. So với Đức Giêsu đang ở trước tòa án thượng tế, Người
không chối, Người nhìn nhận, ta thấy hoàn cảnh của Phêrô tương đối ít nguy hiểm
hơn, vì chỉ là một người đầy tớ gái nói.
Ông
đi ra ngoài thêm một chút nữa, “ông đi ra đến cổng” (c. 71). Lại một người tớ
gái khác thấy ông, thì lưu ý những người ở đó hầu như cũng bằng những lời như
trước: “Bác này cũng đã ở với ông Giêsu người Nadarét đấy”. Vùng địa lý đã thu
hẹp lại, vì không còn là “miền Galilê”, nhưng là “thôn làng Nadarét”. Có vẻ như
vòng vây siết chặt hơn, làm rõ gương mặt của Phêrô hơn. Ông càng sợ. Ông chối
Đức Giêsu lần thứ hai bằng những lời mạnh mẽ: “Tôi không biết người ấy” (c.
72). Ông tránh nhắc đến cả tên Đức Giêsu, mà gọi bằng kiểu bất kính “người ấy”
(anthrôpos). Lời này lại khiến độc
giả nhớ đến các bản văn nói về phán xét cuối cùng. Vào ngày phán xét, Con Người
sẽ nói “Ta không biết các ngươi” với những ai không sẵn sàng cho Người (25,12;
x. 7,23). Phêrô hỗ trợ lời chối bằng một lời thề. Thế là ông đã có bạn đường là
vua Hêrôđê Antipa, vị này đã dính líu vào vụ giết Gioan Tẩy Giả do một lời thề
với một cô gái (14,7), và một bạn đường khác là vị thượng tế, vị này vừa thề
với Đức Giêsu (26,63); nhưng ông không là bạn đường của Đức Giêsu, Đấng đã cấm
các môn đệ thề vì bất cứ lý do gì (5,33-37).
Đến
lúc này Phêrô đã được mọi người ở đó chú ý đến, thế mà ông lại đang tìm mọi
cách để rút lui cho thoát chuyện này. Những người ở chung quanh đến gần ông và
xác nhận những gì người tớ gái vừa nói: “Đúng là bác cũng thuộc bọn họ” (c.
73). Bây giờ vòng tròn đã siết lại chỉ còn là “bọn họ/những người ấy”, tức là
các môn đệ của Đức Giêsu, đồng bạn của Phêrô thôi. Những người này nêu lý do:
chính giọng nói đã tố giác ông. Đó là vì giọng Aram thuộc miền Galilê của Phêrô
(x. c. 70) khác với giọng nói ở Giêrusalem. Đến đây, Phêrô hoàn toàn hốt hoảng.
Ông bắt đầu rủa và thề (= thề độc). Từ “rủa” (katathematizô) xuất hiện trong Mt
ở đây như là lần đầu tiên trong nền văn chương cổ. Động từ này dẫn xuất từ danh
từ katathema (= anathema). Tiếp đầu ngữ kata
nhằm nhấn mạnh. Tuy là động từ ngoại động (transitive), ta không thấy túc từ.
Phải chăng Phêrô rủa mình là nếu ông không nói thật thì sẽ gặp tai họa? Hay là
ông rủa những ai đang đứng đó? Thật ra đối tượng là chính Đức Giêsu (“người
ấy”).
Thình
lình gà gáy (c. 74b). Thế là Phêrô nhớ lại lời tiên báo của Đức Giêsu (c. 35),
mà ông đã ra sức bác bỏ. Lời tiên báo ấy đã được ứng nghiệm từng chữ. Bây giờ
ông đi vào con đường còn tối; ông tránh được những người hỏi phiên phức, nhưng
ông khóc nức nở vì hối hận. Dù ông không được nhắc tên nữa, ta biết ông sẽ được
tha thứ, vì đã có mặt tại ngọn núi Galilê (28,16-20).
Phêrô
là diển hình cho người Kitô hữu có “đức tin yếu kém”, vì pha trộn sự tin tưởng
với sợ hãi (14,28-31), đức tin với phi bác (16,16-20), bội giáo và hối hận. Dù
sao quyền năng của Đấng Emmanuel, Đức Giêsu Kitô, mạnh hơn sự sa sút đen tối
nhất của người môn đệ. Việc Phêrô chối điều trung tâm nhất của đức tin, “ở với
Đức Giêsu”, là rất nặng. Tuy nhiên, Đức Kitô là Đấng trung tín và mạnh thế hơn.
Do đó, cuối cùng, câu truyện Phêrô lại trở thành một câu truyện về niềm hy
vọng.
* Mt 27,1-2 – Đức Giêsu bị nộp cho
ông Philatô
Thật
ra Giêrusalem không phải là một thành “tự do”; đặc biệt về vấn đề tư pháp,
người Do Thái lệ thuộc pháp chế Rôma. Các thành viên Thượng Hội Đồng Do Thái
muốn chấm dứt nhanh vụ việc Giêsu, thì cũng nhất thiết phải tủi nhục đệ trình
vấn đề lên tổng trấn Rôma, Philatô, nổi tiếng cứng rắn và bài Do Thái. Thế là
trời vừa sáng, tất cả các đối thủ quen thuộc của Đức Giêsu trói Người lại và
điệu đến dinh tổng trấn. Mới là thẩm phán, bây giờ họ lại đóng vai người tố cáo
và làm chứng.
*
Mt 27,3-10 – Giuđa không trả tiền lại được và tự tử
Tới
đây chúng ta nghe tường thuật về Giuđa. Câu truyện Phêrô có liên hệ với truyện
Giuđa, vì đây là hai môn đệ duy nhất đã theo Đức Giêsu vào cuộc Thương Khó của
Người, nhưng lại không cung cấp được một quang cảnh xứng với ơn gọi của họ.
Giuđa đã nhận ra sự sai lầm của mình, hẳn là vì điều ông nhắm trước tiên không
phải là đưa Thầy đến chỗ bị kết án. Tuy nhiên, sai lầm của ông là không đi thú
nhận điều này với đúng những người ông phải đến gặp. Ông nghĩ rằng ông đã lý
một hợp đồng sai trái, nên trả tiền lại để rút lại hợp đồng. Và y như thể hành
vi trả lại tiền không nói lên hết, ông tự kết tội mình (“tôi đã phạm tội”, [h]êmarton) và minh oan cho Đức
Giêsu (“oan”, “vô tội”, athôon) (27,4). Lý luận của ông đúng, nhưng
thiếu cơ sở hoặc ngây ngô. Cac thủ lãnh đã có một kế hoạch rõ ràng, chứ không
phải chỉ bị động theo sự phản bội của ông, do đó ông có làm gì cũng không kéo
lui được sự việc. Hẳn là Giuđa đã tưởng mình làm một nhân vật chìa khóa trong
tấn bi kịch Đấng Mêsia, nay khám phá ra là mình chỉ là một dụng cụ tùy thời.
Thế là ông nổi giận, căm tức, nổi điên (ném bạc vào Đền Thờ) và cuối cùng tuyệt
vọng để đi đến chỗ tự tử.
* Mt 27,11-26 – Đức Giêsu bị kết
án; dân Do thái lãnh trách nhiệm về cái chết của Đức Giêsu
Bản
văn này có ba phân đoạn:
a)
Các câu 11-14: Đức Giêsu bị hỏi cung bỡi Philatô, nhân vật chính. Vấn đề duy nhất:
Đức Giêsu có phải là “Vua dân Do Thái” không. Câu 12 nói đến vai trò năng động
của các nhà lãnh đạo Do Thái nhằm kết tội Đức Giêsu, nhưng Philatô không bao
giờ ngỏ lời trực tiếp với họ cả. Tuy nhiên, lại chính là những gương mặt phụ
thuộc này đã tạo ra sự chuyển biến các các biến cố.
b)
Các câu 15-23: Philatô vẫn là diễn viên có quyền tối thượng, còn Đức Giêsu
không còn vai trò tích cực nào nữa. Bây giờ chính đám đông đối thoại với Philatô.
Câu hỏi quyết định là: “Các ngươi muốn ta phóng thích ai cho các ngươi đây?”
(c. 17; x. c. 21). Thế rồi các dung mạo phụ thuộc là các nhà lãnh đạo Do Thái
(c. 18), vợ quan Philatô (c. 19) lại xuất hiện để tác động lên Philatô. Đến c.
20, các nhà lãnh đạo trở thành chủ động, gây ảnh hưởng dứt điểm lên dân chúng.
Đến khi tổng trấn hỏi là phải đối cử với Đức Giêsu thế nào, chính dân chúng trả
lời ông hai lần: “Đóng đinh nó vào thập giá!” (cc. 22-23: staurôthêtô).
c)
Các câu 24-26: cao điểm và kết luận. C. 24 và c. 25 như là một bức tranh bộ đôi.
Philatô phủ nhận mọi trách nhiềuệm, còn dân chúng nhận lấy mọi trách nhiệm về
cái chết của Đức Giêsu. Cuối cùng Philatô đã chiều theo ý họ.
Bản
văn này nhắc nhớ tới cuộc xử trước Thượng Hội Đồng ở 26,59-66. Vị thẩm phán hỏi
về lý lịch của Đức Giêsu (26,63; 27,22), và Người khẳng định cách gián tiếp (26,24;
27,11) hoặc im lặng (26,62-63; 27,12-13) dù người ta tố cáo thế nào (26,62;
27,13). Cả hai phiên tòa kết thúc bằng lời tuyên bố có tội và cuộc hành hạ
(26,67-68; 27,26-31). Mt 27,24-25
không những nhắc đến 27,4, mà cả 23,35-36.
Bản
văn này còn gợi đến phần đầu của TM Mt (ch.
2). Cả hai nơi đều nói đến “Vua dân Do Thái” (2,2; 27,11). Tại cả hai nơi,
chính là dân ngoại (các hiền sĩ và vợ Philatô) đã nhờ một giấc mộng mà tuyên bố
về sự thật. Tại cả hai nơi, “cả thành Giêrusalem” cùng với “các thượng tế và
các kinh sư trong dân” (x. 2,3-4). Ở đầu, Đức Giêsu thoát nạn, còn các anh hài
Bêlem bị giết thế vào chỗ của Người (2,16-18). Còn ở đây, Đức Giêsu không thoát
được nữa. Chu kỳ truyện Đức Giêsu đã khép kín.
Đức
Giêsu bị điệu đến tòa tổng trấn. Tức khắc quan Philatô hỏi Người có phải là
“Vua dân Do Thái” không (c. 11). Câu này sẽ có thể đưa đến chỗ bị kết án là
phạm thượng đối vối hoàng đế Rôma. Thế nhưng quan đã không kết án gì cả. Đức
Giêsu trả lời như ở 26,64: “Chính ngài nói đó”. Câu trả lời này vừa là một
khẳng định vừa là một cách giữ khoảng cách với Philatô: nếu câu hỏi của quan có
màu sắc chính trị, thì câu trả lời của Đức Giêsu là một câu phủ định. Đến đây,
tác giả nhắc qua các kỳ mục và thượng tế, và ghi nhận Đức Giêsu không trả lời
họ khiến ta nhờ lại 26,62-63. Sự thinh lặng của Người là sự thinh lặng của
người công chính bị kết tội, hoặc của Người Tôi Trung của Đức Chúa (x. Tv
38,14-15; 39,10; Is 53,7).
Câu
hỏi của ông Philatô: “Ông không nghe bao nhiêu điều họ làm chứng chống lại ông
đó sao?” nêu bật sự thinh lặng của Đức Giêsu, một sự thinh lặng lạ lùng của một
người rõ ràng không hề bận tâm đến việc cứu lấy mạng sống mình trước mặt quan
tòa. Thái độ này khiến ông “ngạc nhiên” (thaumazein), một phản ứng tích
cực. Dù sao, Philatô biết rõ rằng sự thinh lặng của Đức Giêsu không hề có nghĩa
là Người nhận tội và như thế, Người không phải là một tên nổi loạn làm chính
trị.
Đến
đây tổng trấn vận dụng một tập tục: cho phép dân chúng xin tha một tù nhân. Lúc
đó, có một người tù “khét tiếng” (episêmos, “biết rõ, trổi vượt, nổi
tiếng”) là Barabbas (có nghĩa là “con của Abba”). Philatô cũng không nói với
các kỳ mục và thượng tế. Ông cũng không cho dân chúng chọn bất cứ tù nhân nào,
mà yêu cầu họ chọn ngay một trong hai người này: “Baraba hay Giêsu, cũng gọi là
Kitô?” (27,17). Philatô đã tinh tế sắp xếp như thế, vì ông biết giới lãnh đạo
đã nộp Đức Giêsu chỉ vì ghen tị (27,18; x. 9,33-34; 12,23-24; 21,15-16): đoàn
dân đã từng hoan hô Đức Giêsu khi Người vào Thành thánh (21,9), một đoàn dân mà
giới lãnh đạo sợ họ phản đối (26,5), sẽ có cơ may bảo vệ Đức Giêsu.
Ông
đang ngồi xử án thì vợ ông cho người đến nói về giấc chiêm bao và xin ông đừng
nhúng tay vào vụ này (x. các giấc chiêm bao: Mt 1,20; 2,12-13.19.22). Cũng như ở 2,1-12 và 15,21-28, một người
ngoại lại thấy rõ trong khi một vị vua Do Thái và các nhà lãnh đạo Do Thái giáo
thì bị mù. Bà vợ Philatô can thiệp như là chứng nhân thứ hai về sự vô tội của
Đức Giêsu. Chứng nhân thứ nhất là Giuđa (27,4). Tuy nhiên, tin nhắn của bà đã
không thể xoay chuyển dòng trôi của các biến cố. Trong khi đó, các nhà lãnh đạo
Do Thái ra sức xúi giục đám đông đòi tha Baraba và xử tử Đức Giêsu.
Sau
những thông tin đó, Philatô lại xuất hiện với câu hỏi ở c. 17. Lần này ông nhận
được câu trả lời rõ ràng: Baraba phải được phóng thích. Tổng trấn hỏi, đám đông
quyết định. Giới lãnh đạo Do Thái không cần xuất hiện nữa. Philatô hỏi tiếp:
“Thế còn ông Giêsu, cũng gọi là Kitô, ta sẽ làm gì đây?” Đám đông trả lời:
“Đóng đinh nó vào thập giá!” (cc. 21-22). “Tất cả” (mọi người, c. 22) đều trả
lời; tiếng “không” của dân chúng dành cho Đấng Mêsia thật rõ ràng. “Tất cả/mọi
người” (pantas, c. 22) đi trước “toàn dân” (pas [h]ô laos) ở c.
25. Một lần nữa, Philatô lại nêu vấn nạn, bởi vì Đức Giêsu không làm điều gì
gian ác cả (c. 23). Như thế, ông đồng ý với ý kiến của vợ. Tuy nhiên, ông đã
không dùng quyền imperium để bảo vệ người vô tội. Ông đã tính toán sai
và tự rơi vào bẫy. Bởi vì dân chúng muốn ông thả Baraba, ông nghĩ là ông phải
kết án Đức Giêsu. Dĩ nhiên, ông đâu có bị chèn ép thật sự. Ông không hề hỏi dân
chúng là ông phải làm gì với Đức Giêsu. Không một ai có thể ngăn cản ông, là
tổng trấn Rôma, thả cả người tù thứ hai, mà ông tin là vô tội. Nhưng ông đã
không làm việc này. Bài tường thuật được kết cấu theo cách khiến độc giả không
tức khắc nhận ra là Philatô lúc này không bị buộc phải hành động như ông đang
làm. Thay vì thế, độc giả lại có cảm tưởng là Philatô xoay chuyển quyết định
sang cho dân chúng và bây giờ ông phải làm điều họ muốn. Và điều dân chúng muốn
cũng quá rõ: “Họ càng la to : "Đóng đinh nó vào thập giá !"” (c. 23).
Vị toàn quyền tên là Philatô, mà tác giả Mt cố ý gọi là “tổng trấn” (hêgemôn),
nay trở thành đấu thủ “dự bị”.
Philatô
thấy rằng không thể thay đổi ý muốn của dân chúng; giống như các nhà lãnh đạo
Do Thái, ông muốn tránh một vụ ồn ào. Ông lấy nước rửa tay trước mặt mọi người.
Đây không phải là nghi thức thanh tẩy một người có tội, mà là nghi thức của
Kinh Thánh nhằm miễn cho mình khỏi chịu trách nhiệm về việc đổ máu người nào
(x. Đnl 21,1-9). Dĩ nhiên ông không nại đến Thiên Chúa; ông chỉ long
trọng tuyên bố ông “vô can trong vụ đổ máu” Đức Giêsu.
Chúng
ta thấy ở trong Kinh Thánh có những sự cố tương tự: 2 Sm 3,28; Mt 27,4. Với
cùng một kiểu diễn tả của các thượng tế (“Can gì đến chúng tôi. Mặc kệ anh!”; Mt 27,4), Philatô đẩy trách nhiệm đổ máu
sang cho dân chúng: “Ta vô can trong vụ đổ máu người này. Mặc các người liệu
lấy!” (27,24). Sau Giuđa (c. 4) và vợ ông (c. 19), Philatô là người thứ ba làm
chứng rằng Đức Giêsu vô tội, không những cho các nhà lãnh đạo Do Thái và dân
chúng, mà còn cho cả độc giả hôm nay nữa. Nhưng như thế Philatô có vô can
không? Khi liên kết c. 4 với c. 24 (như kiểu “đóng khung”), tác giả đã đặt
Philatô vào cùng một chuỗi với Giuđa và các thượng tế rồi. Ông giống như một người
trong họ, cho dù ông cố gắng náu mình đàng sau trò nghi thức rửa tay va tránh
đồng lõa trong tội ác đối với Đức Giêsu.
Tác
giả ghi nhận toàn dân (laos) đáp lại nghi thức rửa tay của Philatô nhằm
tránh trách nhiệm. Chúng ta có thể lấy làm lạ là ở c. 24, tác giả nói đến “đám
đông” (ochlos), còn ở đây là “dân” (laos). Trong Bản LXX
cũng như trong Mt, laos có nghĩa là “dân Thiên Chúa, Israel”, còn
ochlos là một đám người đông đảo. Có những tác giả cho rằng laos
tương đương với ochlos. Có những tác giả khác thì bảo rằng toàn thể dân
Thiên Chúa chọn hôm ấy đã sát cánh với giới lãnh đạo để nói “không” với Đức
Giêsu. Hẳn là tác giả Mt không có ý
nói là toàn dân Thiên Cúa, tức từng cá nhân người Israel, vào ngày hôm đó đã
kết án Đức Giêsu. Nhưng ngài muốn gợi ý là hoạt cảnh này phác ra những gì sẽ
trở nên rất rõ sau Phục Sinh: tiếng “không” của “toàn thể” dân Israel.
Vậy,
ngược lại với Philatô, dân chúng lãnh lấy trách nhiệm giết Đức Giêsu. Họ cũng
dùng những lời có âm vang Kinh Thánh: “Máu hắn cứ đổ xuống đầu chúng tôi và con
cháu chúng tôi” (x. công thức: St 31,16; Xh 17,3; nội dung: 2
Sm 3,28-29; 1 V 2,32-33). Họ đã chấp nhận trách nhiệm dối với cái
chết của Đức Giêsu và cả hình phạt của Thiên Chúa sẽ xảy ra khi thành
Giêrusalem bị tàn phá.
Philatô
đã làm những gì dân chúng yêu cầu. Ông phóng thích Baraba và cho đánh đòn Đức
Giêsu, như bước đầu của án tử hình. Không thấy có việc tuyên án. Không phải là
luật không buộc làm. Không phải là tác giả Mt lờ đi để khỏi gán cho
Philatô cái tội tày trời. Chỉ là vì bây giờ vị tổng trấn chỉ còn là một cái
“bung xung”, chỉ biết làm những gì dân chúng yêu cầu. Ông “trao” (động từ paradidômi
xuất hiện lần cuối cùng trong Mt) Đức Giêsu vào chặng cuối, đóng đinh
vào thập giá.
* Mt 27,27-31 – Đức Giêsu bị đánh
đòn và chế nhạo
Đoạn
văn này có cấu trúc đồng tâm như sau:
27
Trong dinh, lính tập trung (synêgagon) cả cơ đội lại quanh Đức Giêsu.
28 Chúng lột áo Người ra (ekdysantes), khoác cho Người một tấm áo
choàng (chlamys).
29a Đặt một vương miện gai trên đầu (epi tês kephalês) và trao
cho một cây sậy (kalamos).
29b Chế nhạo (enepaixan) Đức Giêsu và tôn vinh Đức
Vua dân Do Thái (basileus tôn Ioudaiôn).
30
Lấy cây sậy (kalamos) mà đập vào đầu Người (eis tên kephalên).
31a Sau khi chế giễu (hote enepaixan), chúng lột (exedysan)
áo choàng (chlamys), và cho Người mặc áo lại.
31b
Điệu (apêgagon) Người đi đóng đinh.
Trung tâm của bản văn là cuộc tôn vinh nhằm
chế nhạo “Đức Vua dân Do Thái”. Những
người duy nhất làm một chuyện gì đó trong toàn bản văn là những người lính. Tên
mà họ gọi Đức Giêsu (“Vua dân Do Thái”) tương ứng với lời kết án của Philatô
(27,11) cũng như cảnh chế nhạo sau phiên xử trước Thượng Hội Đồng với tên gọi
“Kitô” tương ứng với câu hỏi của thượng tế (26,68; x. c. 63). Hai cảnh chế nhạo
liên hệ với nhau bằng việc khạc nhổ (26,67; 27.30).
Lính
tráng của Philatô chịu trách nhiệm về Đức Giêsu. Họ đưa Người “vào trong dinh (praitôrion)”,
có lẽ là vào sân trong của dinh Hêrôđê. Hẳn là tác giả phóng đại khi nói tập
trung cả “cơ đội” (speira) lại, bởi vì một speira là một phần mười
một binh đoàn (legion), tức khoảng 500-600 người. Họ chế nhạo và hành hạ Đức
Giêsu. Trước hết, họ lột áo và trao cho Người ba vật mô phỏng các biểu hiệu của
một vị vua Cận Đông: áo choàng (chlamys) đỏ tươi thay vì hoàng bào màu
đỏ tía, một vương miện bằng gai thay vì một vương miện vòng nguyệt quế bằng
vàng, và một cây sậy làm gậy thay vì một vương trượng bằng gỗ hay vàng. Sau đó,
họ quỳ gối chúc tụng chế nhạo vị vua ăn mặc như thế. Từ ngữ “chế nhạo” được
dùng ở đây (c. 19b), ở cc. 31 và 41; ở 20,19, khi tiên báo về cuộc Thương Khó,
Đức Giêsu cũng đã báo trước rằng Người sẽ bị nhạo báng: Người là vị vua bị
khinh miệt thậm tệ.
Các
biểu hiệu vương quyền có thể được dùng theo những mục đích khác. Ở c. 30, lính
tráng khạc nhổ vào Người, như các nhà lãnh đạo Do Thái đã làm ở 26,67. Như thế,
cả người Do Thái lẫn Dân Ngoại đều tích cực và độc ác tham gia vào việc hành hạ
và giết Đức Giêsu. Rồi lính lấy cây gậy liên tục đập (vì thế tác giả dùng etypton,
thì vị hoàn của động từ typtô, “đập”) lên đầu Người. Người bị đau nhiều,
vì trên đầu có vòng gai.
Trò
nhạo báng thô bạo đã chấm dứt. Đức Giêsu phải trả áo choàng lại, và nhận lại áo
của Người. Con đường lên Đồi Sọ bắt đầu.
Toàn
cảnh vừa rồi được bao trùm trong sự mỉa mai. Vua Giêsu mặc bộ áo của thằng
khùng và bị biến thành trò hề lố bịch. Khác với TM Mc, Mt cho thấy cuộc “tôn
vinh báng bổ” chưa phải là kết thúc. Thái độ phục tùng giả dối ở c. 29b tràn ra
thành bạo lực ở c. 30, còn “vương trượng” biến thành cây gậy để đánh đập. Độc
giả “sống” cảnh này thế nào? Phải chăng vương quyền của Con Thiên Chúa vẫn sáng
chói ở đây như ở 26,64? Hoặc đã đến lúc vương quyền ấy bị che phủ hoàn toàn?
* Mt 27,32-38 – Đường thập giá và
đóng đinh
Các
bản văn nói về các chặng đường đi lên Đồi Sọ rất vắn tắt, chứ không chi tiết như
Đàng Thánh Giá. Chúng ta chỉ có giai thoại ông Simôn và các phụ nữ Giêrusalem
khóc than.
“Đang
đi ra” (c. 32). Chúng ta hiểu là đi ra ngoài thành, chứ không phải ra khỏi
dinh, bởi vì các cuộc hành hình thường được thực hiện ở bên ngoài thành. Tác
giả không nói rõ là Đức Giêsu vác cả cây thập giá, hay là chỉ vác thanh ngang.
Đến mỗ nào đó, họ “gặp một người Kyrênê, tên là Simôn”, tình cờ. Hẳn ông là một
người Do Thái, quê Kyrênê là thành có một phần tư dân cư là Do Thái. Bọn lính
bắt vác thập giá của Đức Giêsu hẳn là vì Người đã kiệt sức. Không biết ông
Simôn có sẵn sàng vác thập giá chăng, và hẳn đây là thanh ngang. Các độc giả có
thể nhớ đến lời Đức Giêsu ở 16,24: ai muốn làm môn đệ Người, “hãy vác thập giá
mình mà theo”. Thế nhưng có những chi tiết không đi với nhau: ở đây là thập giá
của Đức Giêsu, còn ở kia là chính thập giá của người môn đệ. Ở đây ông Simôn bị
ép vác thập giá, còn ở kia là đời môn đệ tự do chọn lấy.
Khi
đến Gôngôtha, tiếng A-ram có nghĩa là “Đồi Sọ”, họ cho Đức Giêsu “uống rượu pha
mật đắng” (c. 34). Mc nói đến thứ rượu có những chất làm giảm đau; Mt thì nghĩ đến Tv 68 LXX: Đức
Giêsu hoàn tất Thánh vịnh này khi bị hành hạ, bị chế nhạo và phải uống rượu
đắng.
Cuộc
đóng đinh của Đức Giêsu được nhắc đến vắn tắt, không hề nhắc đến những chi tiết
thê thảm độc dữ. Tác giả quan tâm đến việc quân lính chia nhau áo xống của
Người, vỉ khiến ngài nhớ đến Tv 21,19 LXX (rõ hơn cả trong Mc
15,24). Mục đích của ngài ở đây cũng như ở những chỗ khác khi ngài nhắc đến Tv
22 (LXX 21) là cho thấy rằng những đau khổ của Đức Giêsu đều đã được tiên báo
trong Kinh Thánh, được Lời Thiên Chúa yểm trợ. Bản án được treo trên thập giá
khiến độc giả nhớ lại câu hỏi của Philatô (27,11) và trò chế nhạo của bọn lính
(27,29), và biết rằng đây là chuyện của người Rôma. Họ vẫn biết vương quyền
thật sự của Đức Giêsu nằm ở đâu (x. 2,1-12) dù Người đã vào thành Giêrusalem
như một vị vua nghèo hèn (basileus prays) theo Dacaria (21,5), để rồi ngày nào
đó sẽ xét xử muôn dân (Mt 25,34.40).
Đến
đây, “hai tên cướp (lêstai)” được nhắc đến lần đầu tiên, có thể là những
tên gian phi, hay là thành viên của Nhóm Nhiệt thành. Đức Giêsu được đóng đinh
ở giữa, hẳn đây là một ám chỉ kín đáo đến vương quyền của Người, một ngày kia
sẽ ngự tòa với con nhà Dêbêđê bên phải và bên trái (x. 20,21.23). tuy nhiên,
hình ảnh “Đức Vua Israel” bị đóng đinh giữa hai tên cướp lại đưa đến một trận
chế nhạo khác.
* Mt 27,39-44 – Chế nhạo Con Thiên
Chúa
Trong khi giai thoại trước tường thuật
các biến cố rất ngắn ngủi, bản văn này lại cung cấp nhiều chi tiết. Hai lần chế
nhạo đầu (cc. 39-40.41-43) được cấu trúc tương tự. Trước tiên những kẻ chế nhạo
được giới thiệu, rồi những điều họ nói được tường thuật. Cả hai lần, Đức Giêsu
đều bị thách thức xuống khỏi thập giá (katabêthi [katabatô] apo tou staurou);
cả hai lần, Người đều bị chế nhạo như là Con Thiên Chúa; cả hai lần, Người đều
bị thách là cứu lấy chính mình (sôzô + đại từ phản thân). Lần chế nhạo
này nhắc đến lý do khiến Đức Giêsu bị tòa án Do Thái xét xử (x. c. 40:
26,61.63). Lần chế nhạo thứ hai, dài hơn, do các nhà lãnh đạo Do Thái, thì có
khoảng cách: họ không trực tiếp nói với Người. Ở c. 43, khi chế nhạo Đức Giêsu,
chính các nhà lãnh đạo đã dùng Tv 21,9 LXX để nói ra những gì tác giả
muốn nói với các độc giả. Lần chế nhạo thứ hai nêu lý do của phiên tòa Rôma (x.
c. 42: 27,11). Về lần chế nhạo thứ ba, do những tên cướp cùng bị đóng đinh,
chúng ta không có chi tiết nào.
“Kẻ qua người lại đều nhục mạ (eblasphêmoun)
Người và lắc đầu” (c. 39). Blasphêmein có thể là “nói phạm thượng” hay
là “nói điều xấu về”. Tuy nhiên, từ ngữ này khiến nhớ lại cuộc xử trước Thượng
Hội Đồng: tại đấy, Con Thiên Chúa và vị Thẩm Phán thế giới là Đức Giêsu bị kết
tội nói phạm thượng (eblasphêmêsen; 26,65). Và giờ đây các đối thủ đang
“nói phạm thượng” đến Người! Trong Kinh Thánh, “lắc đầu” là cử chỉ tiêu biểu
của việc “làm trò cười” Có nhiều bản văn nói tới cử chỉ này (x. Ac 2,15;
Is 37,22; Tv 109,25), nhưng rõ ràng tác giả khai thác đặc biệt Tv
21 LXX (Tv 21,8; x. 21,7 LXX: oneidos [c. 44]; 21,9.22 LXX: sôzô
[cc. 40-41]; 21,9.21 LXX: ryomai [c. 43]).
Họ nhắc lại nhưng phóng đại lời Đức
Giêsu nói về Đền Thờ (x. 26,61) và chế nhạo Người đã tự cho mình là Con Thiên
Chúa (x. 26,63-64). Vì Người đã cho rằng Người có quyền lực lớn lao, thì hãy
xuống khỏi thập giá. Chắc chắn Người có thể xin Cha Người phái mười hai cơ binh
thiên thần, có thể phá hủy và xây lại Đền Thờ (26,53.61), thì cũng có thể xuống
khỏi thập giá, nhưng Người đã dạy môn đệ: “Ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ
mất” (16,25). Nếu bây giời Người không xuống khỏi thập giá, thì Người qua được
trắc nghiệm của giáo huấn Người. Độc giả cũng không thể không nhớ lại lời của
Satan ở đầu Tin Mừng: “Nếu ông là Con Thiên Chúa...” (4,3.6). Truyện phép rửa
và cám dỗ (3,17; 4,3.6) và 27,40.43.54 là một đóng khung. Như thế đến cuối hành
trình của Người, những đối thủ Do Thái của Người đã nhận lấy vai trò của Satan,
và thế là Đức Giêsu lại trải nghiệm cuộc cám dỗ cuối cùng của Satan. Người đã
chống lại được và đã chứng tỏ Người là Con Thiên Chúa. Người là Đấng ngay khi
phải chết vẫn vâng theo ý muốn của Thiên Chúa và thay vì tự cứu lấy mình thì để
mặc việc ấy vào tay Thiên Chúa. Như vậy, Đức Giêsu chịu đóng đinh không cần trả
lời các chế nhạo của các đối thủ.
Pha chế nhạo thứ hai dài nhất và quan
trọng nhất. Bây giờ các nhà lãnh đạo Do Thái (thượng tế, kinh sư, kỳ mục) lại
xuất hiện để tấn công Đức Giêsu lần cuối trước khi Người tắt thở. Cũng như
trong lần tiên báo đầu tiên về Thương Khó (16,21), ba nhóm này đều được nhắc
tới, họ chế nhạo một cách tinh vi. Họ không nói trực tiếp với Đức Giêsu, cũng
không nói với nhau như trong Mc (15,21); họ nói công khai, với mọi
người, và trên hết, nói với các độc giả: “Hắn cứu được thiên hạ, mà chẳng cứu
nổi mình”. Quả thật, Đức Giêsu đã cứu nhiều người (x. 8,25; 9,27; 14,30). Những
phép lạ chữa lành đủ loại cho hiểu rằng Người mới là Đấng sẽ “cứu thoát” Israel
(1,21). Thế rồi chẳng phải do đức tin, các nhà lãnh đạo tôn giáo đã tuyên xưng
Đức Giêsu là “Vua Israel”, theo Philatô (27,11) và theo bản án trên thập giá
(27,37). Rõ ràng họ bắt tay với người Rôma để tiêu diệt Đức Giêsu.
Họ tiếp tục dùng lời lẽ của quân vô đạo
mà chế diễu Đức Giêsu (c. 43; x. Tv 21,9 LXX). Lời lẽ của họ bây giờ còn
gian xảo hơn c. 42, vì họ nói cả về Thiên Chúa: “Hắn cậy vào Thiên Chúa”. Họ
càng chứng tỏ họ có đầu óc vô đạo khi nhắc lại lời Đức Giêsu khẳng định Người
là “Con Thiên Chúa”. Câu Kn 2,18 rất giống với Mt 27,43. Hẳn tác
giả Mt có nghĩ tới Kn 2,5 nói về người công chính là con Thiên Chúa. Nhưng Đức
Giêsu là “Con Thiên Chúa” theo một nghĩa hoàn toàn khác (x. 3,17; 11,27; 14,33;
x. 16,16; 17,5).
Tác giả TM chỉ nhắc đến pha chế
nhạo thứ ba, vì cũng một nội dung như thế. Cả những tên cướp cũng chế nhạo
Người. Không hề có tình liên đới nào trong đau khổ (khác Lc 23,40-43).
Trong cuộc cám dỗ cuối cùng, Đức Giêsu hoàn toàn cô đơn. Không có một ai trong
dân Israel đứng về phía Người.
*
Mt 27,45-50 – Đức Giêsu từ trần
Câu
45 là mở đầu cho biến cố trung tâm, cái chết của Đức Giêsu. Bóng tối bao phủ
mắt đất trong vòng ba giờ. Sau đó, Đức Giêsu kêu lẩn thứ nhất ở c. 46, lần thứ
hai ở c. 50, cả hai lần đều “lớn tiếng”
(phônê megalê), rồi tắt thở liền.
Trong cc. 47-49, giữa hai tiếng kêu lớn, tác giả cho thấy dân chúng đứng đó
không hiểu, lại còn chế nhạo nữa, chi tiết này được đóng khung bởi các quy
chiếu về Êlia (cc. 47.49). Lần cho uống thứ hai là trung tâm (c. 48). Sôsôn (“cứu”; c. 49) là phân từ tương
lai duy nhất trong Mt, nhằm nhắc lại
các lời chế nhạo ở cc. 40-42.
Tác
giả không giải thích “ý nghĩa” của giờ thứ sáu, tức giữa trưa, hay của hiện
tượng bóng tối bao trùm cả mặt đất trong vòng ba giờ, như Lc 23,45. Dù sao, bóng tối vào lúc này không phải là một hiện tượng
thiên nhiên, mà là do Thiên Chúa can thiệp. “Đất” (gê) theo cách dùng của Mt
có nghĩa là “trái đất”; nếu ngài muốn nêu ý nghĩa “vùng, miền” (= Giuđê), thì
ngài sẽ kết nối thêm một thuộc tính (x. 2,6.20-21; 4,15; 9,26.31; 10,15; 11,24;
trừ 5,5; 23,35).
Cùng
với thánh Anbéctô Cả, nhiều học giả hiểu “bóng tối” là khởi đầu những việc diệu
kỳ Đức Kitô thực hiện trên thập giá. Nếu vậy, “bóng tối” thuộc về chuỗi những
việc lạ lùng xảy ra sau khi Đức Giêsu tắt thở (màn trướng Đền Thờ xé đôi, động
đất, người chết sống lại, và cả tiếng kêu lớn cuối cùng của Người nữa). Tuy
nhiên, cách giải thích này không vững, bởi vì ở c. 51, có sự thay đổi giọng văn
bằng từ kai idou, “Và này!” hoặc “Thế
rồi, đây!”, báo cho biết có điều gì mới đang bắt đầu. Tác giả phân biệt rõ ràng
giữa những gì xảy ra trước khi Đức Giêsu tắt thở và những gì xảy ra ngay sau
đó. Phải chăng “bóng tối” là một dấu chỉ về nỗi buồn của trời cao (x. Am 5,18; 8,9-10; Ge 2,2; 3,15; Xp 1,15; Is 13,10-11; Gr 15,9)? Hay đây chính là mặt trời che mặt đi vì tủi nhục, không
muốn nhìn xem điều đang xảy ra? Cứ đứng tại bình diện tường thuật, có thể giải
thích được. Vào giờ thứ sau, trời ra tối tăm. Không có lời giải thích nào cả.
Tối tăm toàn diện, không thoát được. Bóng tối bao trùm cả thế giới. Không có
chuyện gì xảy ra cả trong vòng ba giờ (có những đoạn song song: Kh 8,1; 2 Edr 7,30-31). Vũ trụ im hơi lặng tiếng. Câu 45 y như thể là một
khoảng không. Hẳn là có chuyện kinh thiên động địa sắp xảy ra?
Sau
ba giờ, bóng tối kết thúc, còn truyện cái chết của Con Thiên Chúa vẫn tiếp
diễn. Vào khoảng giờ thứ chín (= 3g chiều), Đức Giêsu kêu một tiếng lớn. Tác
giả không ghi thời gian chính xác; ngài không hề quan tâm đến một thời gian
biểu mang tính khải huyền, cũng như đã chẳng ghi lại thời gian đóng đinh, là
giờ thứ ba, như Mc 15,25. Chúng ta
cũng không được giải thích “tiếng kêu lớn” (phônê
megalê), một thuật ngữ của Kinh Thánh (x. St 27,34; 1 Sm 28,12 LXX;
Gđt 4,9; 7,23; Is 36,13; Ed 11,13), là
Thiên Chúa lên tiếng xét xử hoặc thậm chí tiếng kêu xét xử của vị Thẩm Phán Thế
giới, là Con Người. Dựa theo ngữ cảnh, đây là tiếng kêu của một người đang cầu
nguyện (x. Tv 17,7 LXX; 21,3.6.24
LXX; 68,4 LXX; Ed 11,13. Anaboaô thường được dùng trong Bản LXX
để nói về việc cầu nguyện lớn tiếng). Nội dung của lời cầu nguyện là Tv 22,2, tiếng kêu phó thác của Đức
Giêsu.
Câu
46 vẫn gây ra nhiều vấn nạn.: Đức Giêsu bày tỏ lòng tin tưởng vào Thiên Chúa
hay là diễn tả sự thất vọng? Theo quan điểm thứ nhất, các nhà chú giải cho rằng
Tv 22 đưa đến kết thúc là lời ca ngợi
ở cc. 23-32. Cứ cho đi là tác giả nghĩ đến toàn thể hay phần lớn Tv 22, các câu trích lại chỉ nói đến
hoàn cảnh eo hẹp của Đức Giêsu (Mt
27,35: Tv 22,19; cc. 21-29.39: x. Tv 22,8; c. 43: x. Tv 22,9; c. 46: Tv 22,2),
chứ không có chỗ nào trong bản văn gợi ý là phải nghĩ đến Tv 22,23-32. Hơn nữa,
c. 46 là đỉnh cao của một chuỗi sự cố: Trước tiên, Đức Giêsu bị các môn đệ
(26,56), rồi bị cả Phêrô (26,69-75) bỏ rơi; cuối cùng, Người hoàn toàn cô đơn ở
giữa đám kẻ thù, và bây giờ dường như bị cả Thiên Chúa bỏ rơi. Sự tiệm tiến
trong tường thuật như thế dường như không cho phép hiểu là Đức Giêsu bày tỏ sự
tin tưởng?
Vậy
với Tv 22,2, chúng ta nghe ra tiếng
than của Đức Giêsu, vì cảm thấy bọ Thiên Chúa bỏ rơi, đang kêu lên với Thiên
Chúa của Người bằng những lời lẽ của thánh vịnh. Bóng tối bên trong và bóng tối
bên ngoài tương ứng với nhau trong cc. 45-46. Trong tình trạng tối tăm hoàn
toàn này, không còn có thể thấy được gì về uy quyền của Đức Giêsu, lúc này ý
thức về giờ của Người và về chương trình
của Thiên Chúa trong các biến cố (x. 26,2.18.45). Đức Giêsu kêu lên nỗi đau đớn
và cảm nhận bị bỏ rơi, Người kêu to, chứ không cam chịu theo ý muốn của Thiên
Chúa. Ở đây, nỗi đau không được thắng vượt hay chấp nhận bên trong; đơn giản,
nó đang ở đó, rất đau đớn và tăm tối, y như bóng tối chung quanh Người.
Tuy
nhiên, Đức Giêsu không chỉ kêu vào bóng tối vô danh; Người kêu to, hầu như với
giọng kết án nữa, với Thiên Chúa. Mặc dù không thấy Thiên Chúa (bóng tối nuốt
trửng mọi sự), ở đây không còn có một ai để Người quay về trong tình trạng bị
bỏ rơi ngoài Thiên Chúa. Trong lời cầu nguyện, Đức Giêsu thưa với Thiên Chúa
trực tiếp (ngôi thứ hai). Người không dùng lời lẽ của Người, nhưng ngôn ngữ cầu
nguyện có sẵn của Kinh Thánh.
Nội
dung lời kêu của Đức Giêsu (“Ê-li, Ê-li,
lê-ma xa-bác-tha-ni”) như thế nào? Từ êli
tương ứng với bản văn Híp-ri của Tv
22,2, nhưng nó cũng có thể là kiểu nói Híp-ri trong ngôn ngữ A-ram. Lema thì đúng là từ A-ram (chứ không
phải là lama của Mc). Còn sabachthani thì
chắc chắn là A-ram. Vậy bản văn Tv
22,2 trong Mt không phải là bản phóng
tác từ bản văn Híp-ri, nhưng là bản văn A-ram được chuyển tự đúng đắn. Có thể
tác giả Mt đã thay đổi bản văn Mc vì ngài muốn cho thấy rõ làm thế nào người ta
lại có thể làm lời cầu nguyện này với lời gọi ông Êlia hoặc bởi vì ngài nghĩ
rằng tiếng kêu tương ứng sát hơn với bản văn Tv 22,2 A-ram mà ngài đã quen. Bản văn Hy Lạp lại không hoàn toàn
theo bản LXX.
Đức
Giêsu không nhận được một câu trả lời nào từ phía Thiên Chúa, nhưng rất có thể
Thiên Chúa trả lời qua những người đang đứng đó. Họ ghi nhận rằng thế này: “Hắn
ta (houtos, “tên này”, có thể hàm ý
khinh bỉ) gọi ông Êlia!”. Rõ ràng họ nghĩ đến Êlia không như một dung mạo cánh
chung, nhưng như một đấng trợ giúp trong những hoàn cảnh khó khăn, theo kiểu
hiểu đạo đức bình dân. Còn đối với các độc giả đã quen lời Tv, để hiểu được
tiếng kêu của Đức Giêsu, đây là một sự bóp méo nhạo báng ác độc. Như thế, Đấng
chịu đóng đinh bị nhạo báng lần cuối cùng. Những kẻ nhạo báng này hẳn là người
Do Thái chứ không phải là đám lính, vì họ đã quen với nền đạo đức Do Thái bình
dân. Rồi, một người đã đi thấm đầy giấm vào miếng bọt biển buộc vào đầu cây sậy
mà đưa lên cho Đức Giêsu; nếu người này là lính, hẳn đã dùng mũi giáo mà đâm
vào miếng bọt biển cho tiện. Có lẽ nhóm
còn lại tiếp tục nhạo báng.
Như
thế, khác với Mc, tác giả Mt phân biệt giữa người cho Đức Giêsu
thứ gì đó mà uống (c. 48) với những người khác tiếp tục nhạo báng (c. 49). Phải
chăng người kia đã làm một việc tốt? Trong Mc,
đấy cũng là một cách nhạo báng ác độc. Câu trả lời một phần tuy thuộc cách giải
thích động từ aphei, “khoan đã/bỏ
đi”, một phần tùy vào cách hiểu oxoi
là “giấm/rượu”. Nếu chúng ta hiểu aphei
theo nghĩa cổ điển như là một mệnh lệnh cách độc lập (“bỏ đi, dừng lại đi”),
thì có vẻ những người chế nhạo khác ở c. 49 muốn cản bạn họ làm một việc tốt.
Nếu hiểu động từ này theo nghĩa sau này như là một từ để mời hoặc lưu ý không có nghĩa độc lập (“thế thì..., xem
nào...”), thì những người chế nhạo khác đang ủng hộ bạn của họ. Nghĩa sau này
có lý hơn vừa do phương diện ngữ học vừa do ý nghĩa thực tế của từ ngữ oxos. Oxoi có thể là một thứ rượu chua rẻ tiền hoặc “giấm”. Nếu có nghĩa
là rượu chua, thì việc cho Đức Giêsu uống vừa nhắm giải khát vừa nhắm kéo dài
sự sống cho Người. Hợp lý hơn nên cho rằng tác giả muốn nhắc độc giả nhớ đến Tv 68,22 LXX (đã được gợi đến ở c. 34),
từ đó ngài rút ra ý là “giấm”. Như vậy, việc đưa giám cho Đức Giêsu uống là đề
hành hạ Người, tương tự ở c. 34. Và như vậy, ở c. 49, các đồng bạn của người
kia không ngăn cản anh ta làm một việc tốt, nhưng đang hỗ trợ trò nhạo báng của
anh ta. Những người này, cũng như những người ở cc. 40.42, chẳng hề nghĩ rằng
Êlia thật sự có thể “cứu” được Đức Giêsu.
Như
vậy, Đức Giêsu hoàn toàn cô đơn, bị cả Thiên Chúa lẫn loài người bỏ rơi. Không
giống như trong Lc và Ga, trong Mt, không có một người tốt lành nào đứng bên thập giá của Người.
Thế
là sang c. 50, Người kêu một tiếng lớn thứ hai, rồi “trút linh hồn”. Nhiều nhà
chú giải cho rằng đây là một tiếng kêu không lời và là một tiếng kêu chiến
thắng (Gioan Kim Khẩu, Ambrôsiô, Tôma Aquinô). Trong thực tế, tác giả nhấn trên
những điểm khác. Tiếng kêu cuối cùng của Đức Giêsu không hề biện minh cho tư
tưởng về phán xét, chiến thắng, thời đại mới đang đến. Người “lại (palin) kêu một tiếng lớn (phônê megalê)” đưa trở lại với c. 46,
còn “kêu” (kraxas) nhắc lại Tv 22 (x. Tv 22,3.6 LXX). Như thế, tác giả Mt đã hiểu tiếng kêu cuối cùng của
Đức Giêsu rõ ràng như tiếng kêu thứ hai để cầu nguyện, tức không nhất thiết là
không lời. Và như thế, tác giả chỉ đơn giản nói rằng Đức Giêsu kêu lên Thiên
Chúa một lần nữa, rồi chết.
*
Mt 27,51-54 – Thiên Chúa trả lời cho các chết của Đức Giêsu
Kai idou, “Và này!” hoặc “Thế rồi, đây!”
cho thấy một phần mới được mở ra. Kế đó trong cc. 51-52 với giọng văn hoàn toàn
khác hẳn phần trước, một chuỗi biến cố được kể nhanh mà không được giải thích,
có năm câu ngắn với chủ ngữ ở đầu và động từ ở thì aorist thái bị động. Chuỗi
các biến cố của cc. 51-52 được kết lại ở c. 53 bằng một câu dài hơn chứa hai
động từ chính được đưa vào bằng một phân từ. Câu 53 không đưa ra một chủ từ
mới, nhưng cung cấp thêm chi tiết, điều này chứng tỏ câu kết này (nói về người
chết) là câu quan trọng hơn cả, và năm câu kia dẫn đến kết luận này như tới một
cao điểm. Các câu nhỏ được liên kết với nhau bằng những từ móc nối (“rung” [seiô] / “động đất” [seismos], cc. 51.54; “rung, vỡ” [schizô], c. 51 hai lần; “mồ mả”” [mnêmeion], cc. 52-53; “trỗi dậy” [egeirô] / “trỗi dậy” [egersis],
cc. 52-53; “nhiều xác/người” [polys],
cc. 52-53; “thánh” [hagios], cc.
52-53. Câu 54 có vai trò như một lời hoan hô các phép lạ trước (cc. 51-53). Tham
gia vào việc hoan hô này, không chỉ có viên đại đội trưởng, mà còn có những
người của ông.
Có
những điểm liên kết chặt chẽ bản văn này với truyện Phục Sinh ở 28,1-10, khiến
ta hiểu đây là một bản văn báo trước Phục Sinh: “trỗi dậy” (egeirô/egersis) của cc. 52-53 đưa đến 28,6-7; “mồ mả” (mnêmeion) của cc. 52-53 đưa đến 28,8;
“rung / động đất” (seiô / seismos)
đưa đến 28,2.4; và ngữ căn “sợ: (phob-)
ở c. 54 đưa đến 28,4-5.8.10. Bởi vì các biến cố được mô tả ở cc. 51-53 đã xảy đến bất ngờ và bột phát, hợp
lý là không có những liên kết với các phân đoạn trước, ngoại trừ đối với những
người lính ở c. 54 (x. c. 36).
Các
biến cố xảy ra dồn dập. Trước hết, “bức màn trướng trong Đền Thờ xé ra làm hai
từ trên xuống dưới” (c. 51). Trong Đền Thờ, không chỉ có một bức màn trướng duy
nhất, nhưng ở đây tác giả chỉ nói đến “bức màn trướng” (to katapetasma). Thường ở Đền Thờ, có một tấm màn phân cách Gian
Cực Thánh, nơi mà chi thầy thượng tế được vào Ngày Xá Tội, với phần còn lại của
Đền Thờ (x. Xh 26,31-35; Lv 16,2) và tấm màn ở cổng chính ngăn
cách Sân Israel với tòa nhà Đền Thờ (x. Xh
26,36-37; 38,18). Nếu là tấm màn che Gian Cực Thánh, thì sẽ giải thích theo
hướng phụng tự: Gian Cực Thánh lâu nay không ai thấy được, nay mở ra cho mọi
người. Nếu là tấm màn ở ngoài, thì sẽ giải thích như là một dấu chỉ về thảm họa
đã từng được Đức Giêsu tiên báo (23,37–24,2; x. 26,61; 27,25). Đây là tấm màn
duy nhất thấy được và công chúng có thể đến đó mà nhìn thấy những gì đã xảy ra.
Lại có những bản văn liên kết cửa chính Đền Thờ với những dấu chỉ vế thảm họa
loan báo cuộc tàn phá Đền Thờ. Cả hai tấm màn đều có thể được giải thích theo hai
cách trên, bởi vì việc tàn phá Đền Thờ có nghĩa là chấm dứt nền phụng tự.
Đối
với các độc giả đã biết lời Đức Giêsu tiên báo về việc tàn phá Đền Thờ
(23,38–24,2) và biết rằng Người có quyền phá hủy Đền Thờ và trong ba ngày thì
xây lại (26,61), mặc dù Người đã không làm, họ thiên hơn về cách giải thích
theo hướng Đền Thờ bị phá hủy. Chính Thiên Chúa đang bắt đầu cho những gì Đức
Giêsu tiên báo xảy ra: thái bị động “bị xé ra” (eschisthê, aor. pass. của động từ schizô, “xé ra”) cho hiểu là Thiên Chúa hành động. Tấm màn bị xé
rách hoàn toàn, từ trên xuống dưới, thành hai, nên không thể chắp nối lại được:
nó bị phá hủy hoàn toàn bởi một sự can thiệp của Thiên Chúa. Cũng có thể quan
niệm biến cố này là cách diễn tả một lời than van (x. St 37,29.34; 2 V 2,12): chính
Thiên Chúa thương khóc cái chết của Đức Giêsu bằng cách xé “áo” của nhà Người.
“Đất
rung đá vỡ” (c. 51b), đây cũng là những thái bị động để nói rằng Thiên Chúa
đang hành động: eseisthê, aor. pass. seiô, “rung”; eschisthêsan, aor. pass. schizô.
Trong Kinh Thánh, động đất là dịp để Thiên Chúa tỏ mình ra; động đất thuộc về việc
Thiên Chúa tỏ mình ra vào thời cánh chung, vào lúc phán xét chung (x. chẳng hạn
Is 5,25; 24,18; Ed 37,7 LXX; Ge 2,10;
3,16; Nk 1,5-6; Kg 2,6; Xp 14,5). Với sự
cố màn trường Đền Thờ bị xé toang thành hai, độc giả nghĩ đến một phán xét của
Thiên Chúa; với những hiện tượng đất rung đá vỡ, tức một trận động đất siêu
nhiên, tư tưởng ấy được đào sâu thêm: chính Thiên Chúa sẽ xuất hiện. Với lại,
nếu đá đã vỡ ra trong một trận động đất dữ dội, thì mồ mả phải mở ra, và người
chết có thể trỗi dậy (c. 52).
Các
hiện tượng ở c. 52 cũng được mô tả bằng thái bị động thay tên Thiên Chúa: aneôchthêsan, aor. pass. anoigô, “mở ra”; êgerthêsan, aor. pass. egeirô,
“trỗi dậy”. Chính Thiên Chúa mở các huyệt và cho các thánh trỗi dậy. Theo ngữ
cảnh và trong ngôn ngữ Kinh Thánh, “thánh” đồng nghĩa với “công chính”. Từ Aben
đến Dacaria (x. 23,35), con số các vị này rất đông. Phải chăng đây là khởi đầu
của cuộc phục sinh cánh chung, khi đó mọi người công chính sẽ sống lại? Tuy
nhiên, bản văn không nói đến một cuộc phục sinh toàn diện những người công
chính, mà là “xác” của “nhiều” vị thánh. Vậy, đây quả là việc Thiên Chúa làm,
nhưng không phải là cuộc phục sinh mọi người công chính vào thời cánh chung;
cùng lắm, có thể cho rằng đây là dấu chỉ của thời cuối cùng.
Câu
53 xác nhận rằng không nên giải thích việc nhiều xác thánh trỗi dậy theo hướng
trực tiếp và một chiều là biến cố khải huyền cánh chung. Bởi vì sau khi sống
lại, thay vì được trải nghiệm niềm vui của cuộc sống cuối cùng với Thiên Chúa,
các ngài đi vào Giêrusalem, mà đây là là nơi Đức Giêsu Phục sinh không đi vào!
Giêrusalem đã từng ném đá và giết các ngôn sứ và những đại diện của Thiên Chúa
, nên sắp bị Thiên Chúa trừng phạt (23,37-39). Đối với các độc giả, “thành
thánh” (hagia polis) Giêrusalem là
thành đã gây ra cái chết cho Đức Giêsu, vì “toàn dân” đã sẵn sàng cho máu của
Người đổ xuống trên họ và trên con cháu họ (27,25). Vậy các thánh đã qua đời
nay hiện ra tại Giêrusalem và hiện ra với nhiều người là dấu chỉ cho thấy cuộc
phán xét của Thiên Chúa sắp xảy ra. Vậy đây là một điềm báo không có gì tốt
lành cho dân thành Giêrusalem.
Bây
giờ, không những viên sĩ quan ngoại giáo mà cả những người lính dưới quyền ông
đã phản ứng như một dàn đồng ca trước trận động đất và những sự cố đi kèm theo.
Khác với Mc 15,39, phản ứng của họ
không phát xuất từ cái chết của Đức Giêsu mà là từ những gì xảy ra sau cái chết
của Người. Dựa vào văn cảnh, có thể nói lời “Quả thật ông này là Con Thiên
Chúa” (c. 54) đầy ắp ý nghĩa của một lời tuyên xưng đức tin Kitô giáo. Đáng lưu
ý là các người lính ngoại giáo phản ứng rất khác với những người Do Thái chế
nhạo ở cc. 39-44. Trong khi những kẻ nhạo báng yêu cầu người bị đóng đinh nhận
mình là Con Thiên Chúa hãy chứng thực điều đó bằng khả năng quyền lực của chính
mình, những người lính ngoại giáo lại dựa trên những gì Thiên Chúa đã làm mà
nói rằng Đức Giêsu thật là Con Thiên Chúa. Như vậy, Đức Giêsu là Con Thiên
Chúa, điều này chỉ được chứng thực bởi chính Thiên Chúa mà thôi. Dù có bị những
kẻ nhạo báng thách thức, Đức Giêsu từ chối bày tỏ bất cứ quyền lực gì, Người
chứng thực điều đó chỉ bằng sự vâng phục. Chỉ duy Thiên Chúa mới có thể mạc
khải Đức Giêsu chính là Con của Người, và ở đây là tuyên xưng của những người
lính đang đáp lại mạc khải ấy. Việc những người lính ngoại giáo nhắc lại lời
tuyên xưng của các môn đệ ở 14,33 và 16,16 cho thấy lệnh truyền của Đức Giêsu
đang được thực hiện: Tin Mừng phải đến với muôn dân (28,19-20). Và đây là mặt
khác của cuộc phán xét của Thiên Chúa trên Israel.
*
Mt 27,55-56 – Các phụ nữ tại chân thập giá
Đoạn
văn ngắn ngủi này tách biệt khỏi c. 54, vì các bà “đứng nhìn từ đàng xa”. Các
bà được nhắc đến ở đây để làm cầu nối đưa tới câu truyện an táng (27,61) và
Phục sinh (28,1-10).
Quang
cảnh các phụ nữ “đứng nhìn từ đàng xa” cho hiểu là Đức Giêsu không bị mọi môn
đệ bỏ rơi, cho dù trước khi xảy ra cuộc đóng đinh, tác giả Mt chỉ nói đến các
đối thủ của Người đang chế nhạo Người là kẻ bị mọi người bỏ rơi. Lời nhắc đến
các phụ nữ ở đây là một niềm an ủi, một tin mừng. “Từ đàng xa” (apo makrothen) do thận trọng hay là vì
chưa dấn thân hẳn (trường hợp Phêrô ở 26,58)? Bản văn không xác định ở đây.
Chúng ta phải chờ đọc tiếp.
Ba
phụ nữ được xác định (c. 56): bà Maria Mácđala, bà Maria mẹ các ông Giacôbê và
Giôxếp, và bà mẹ các con ông Dêbêđê. Bà Maria Mácđala đóng một vai trò chìa
khóa trong cả bốn Tin Mừng (x. Mc
16,1tt; Lc 8,2; 24,10; Ga 20,11-18). Còn bà Maria mẹ các ông
Giacôbê và Giôxếp hẳn được các độc giả Mt
biết rõ do hai người con. Chắc chắn bà không phải là mẹ Đức Giêsu, cho dù theo
13,55, Người có “anh em” là Giacôbê và Giôxếp; nếu không, hẳn bà này đã được
gọi là “mẹ Đức Giêsu”. Phải chăng bà là mẹ của ông Giacôbê con ông Anphê theo Mt 10,3? Chúng ta không rõ. Còn người
phụ nữ thứ ba, mẹ các con ông Dêbêđê là Gioan và Giacôbê, chúng ta đã gặp ở
20,20. Đi từ ghi nhận “các bà này đã theo Đức Giêsu từ Galilê”, ta hiểu bà này
gần gũi với Nhóm Mười Hai. Vì sao bà lại thế chỗ bà Salômê ở Mc 15,40? Phải chăng Mt không còn biết
gì về người phụ nữ mà Mc gọi là Salômê, nên ngài đã thay thế bằng tên một bà mà
ngài biết rõ, giống như ở 27,32, ngài không nhắc đến tên của các con ông Simôn
Kyrênê? Hay là bởi vì ngài biết rằng mẹ của các con ông Dêbêđê được gọi là
Salômê, nên ngài chỉ xác định thêm?
Các
bà sẽ tái xuất hiện (27,61; 28,1-10). Đến sáng Phục sinh, các bà sẽ là những
nhân vật chính đón nhận sứ điệp của hoạt động cứu độ của Thiên Chúa. Còn đang
ẩn mình trong bóng tối của thập giá, các bà phác ra khởi đầu của một câu truyện
về hành động của Thiên Chúa, hành động này sẽ tỏ hiện vào sáng Phục sinh trong
ánh sáng chan hòa. Theo nghĩa này, các bà là những người của Thiên Chúa mang
niềm hy vọng.
* Mt 27,57-61 – Đức Giêsu được an
táng
Bài
tường thuật việc ông Giôxếp Arimathê an táng Đức Giêsu được soạn ngắn ở cc.
57-60. Ngoại trừ c. 58b, trong cả đoạn, ông là chủ ngữ duy nhất hành động. Đến
cuối c. 60, ông lại biến mất. Có những từ “móc” tạo một cầu nối giữa cuộc đóng
đinh và truyện Phục Sinh (“mộ”, mnêmeion:
27,52-53; 28,8; “xác”, sôma: 27,52.58.59;
“(núi) đá”, petra: 27,51.60; “(tảng)
đá”, lithos: 27,66; 28,2.
Bản
văn kết thúc bằng một ghi chú rời ra, nói về các phụ nữ, với giọng văn tương tự
c. 55. Các bà không có gì phải làm trong việc an táng Đức Giêsu; các bà chỉ có
việc ở gần bên. Câu này cũng chuẩn bị cho truyện Phục Sinh.
Ông
Giôxếp, sinh tại Arimathê, một người giàu có và là một môn đệ của Đức Giêsu. Arimathê
được cho rằng ở gần Lod (Diospolis) về phía tây Giuđê, dường như cũng được gọi
là “Armathem”. Mc 15,43 ghi nhận ông
là một “thành viên có thế giá của hội đồng”. Nhưng vào thời Mt, cái hố ngăn
cách giữa các môn đệ Đức Giêsu và các nhà lãnh đạo Do Thái lớn đến nỗi ngài
không còn có thể tưởng tượng ra được là một thành viện của Thượng Hội Đồng lại
thân thiện với Đức Giêsu (trong Mt,
không có lời khen nhà thông luật của Mc
12,34, mà là câu Mt 22,34). Vì thế,
người Do Thái đạo đức thành viên của Thượng Hội Đồng vẫn mong đợi Triều Đại của
Thiên Chúa (Mc 15,43) đã biến thành một môn đệ của Đức Giêsu. Thế thì ít ra có
một môn đệ đã không bỏ Đức Giêsu. Ông là một người giàu: thế thì nếu được Thiên
Chúa giúp đỡ, không phải là không thể tìm ra đường chui qua lỗ kim (x. Mt
19,24-26).
Ông
đến vào lúc “chiều tối” (opsia):
chúng ta không biết chính xác giờ nào. Tuy nhiên, đến c. 62, chúng ta sẽ thấy
là tác giả Mt đồng ý với tác giả Mc 15,42. Ông gặp quan Philatô và xin thi hài
Đức Giêsu. Hẳn là những người giàu có dễ gặp tổng trấn hơn. Với lại chúng ta
biết rằng tuy Philatô yếu ớt và lưỡng lự, lúc này không phải là ông không có
hảo ý đối với Đức Giêsu. Đàng khác, có khi thi hài của các tử tội được người
Rôma trả về cho gia đình hoặc bạn bè để chôn cất, nếu như không còn gì phải
đáng ngại về mặt chính trị. Philatôi đã đồng ý vớ ông Giôxếp mà không cần điều
tra gì thêm (x. Mc 15,44-45).
Trong
bản văn Mt, không có nói đến việc ông
Giôxếp “hạ xác” (kathelôn) như Mc 15,46, phải chăng lính Rôma đã hạ thi
hài xuống, và Giôxếp chỉ việc nhận lấy? Ga
19,31-32 cũng giả thiết là lính đã hạ Đức Giêsu khỏi thập giá. Cũng lạ là không
có việc tắm xác, mà đối với người Do Thái, dây là việc quan trọng nhất phải làm
cho một thi hài. Cũng không có chỗ nào nói đến việc tẩm liệm, ướp thuốc thơm.
Sau khi người phụ nữ vô danh ở Bêtania đã làm một cử chỉ báo trước việc này
(26,12), thì việc này không cần nữa. Tác giả chỉ nói rằng Giôxếp bọc thi hài
vào trong một “tấm vải gai (sindôn)
sạch” (27,59). Sindôn có thể là tên
loại vải, hoặc hình dạng chữ nhật của tấm vải. Vào thời ấy, các thi hài thường
được mặc cho một chiếc áo dài bằng vải gai. Động từ entylissô (“gói, bọc”) không phù hợp với thói tục đó, vì làm ta
nghĩ đến một tấm vải. “Sạch” hẳn là vì không có vết hoen ố, do chưa bao giờ
được dùng.
Ông
Giôxếp đặt Đức Giêsu vào “ngôi mộ mới, được đục sẵn trong núi đá, dành cho ông”
(c. 60). Chúng ta không biết chi tiết nào khác, ngoài tảng đá to được ông lăn
ra mà lấp cửa mộ. Dựa vào Mc 16,5 với
cái thế thiên sứ ngồi và Ga 20,5-7, ở
ngoài có thể thấy được khăn liệm, có thể suy ra là mới an táng Đức Giêsu là một
mặt phẳng dài hoặc một cái máng, chứ không phải là một cái hốc nhỏ đục trên tường
để đẩy thi hài vào. Cần ghi nhận là Đức Giêsu được an táng theo cách danh giá.
Người không bị chôn cất cách vô danh trong nghĩa địa Do Thái dành cho những tên
gian phi hay chỉ được chôn trong một nghĩa địa dành cho người nghèo. Ở đây,
Người được an táng theo cách cao quý, trân trọng. Dù nhiều điều không được nói
đến (tắm, xức dầu, than khóc), không hề có dấu gì chứng tỏ là có sự vội vã vì
sắp bắt đầu ngày sabát. Do đó, ấn tượng vẫn là Đức Giêsu được an táng với tất
cả sự tôn kính dành cho Người.
Rồi
ông Giôxếp lại biến mất khỏi bài tường thuật (c. 61). Hai trong ba phụ nữ đã
được nhắc đến ở cc. 55-56 ở lại: bà Maria Mácđala và bà “Maria khác”, tức mẹ
của ông Giacôbê và Giôxếp. Các bà không góp phần vào việc an táng. Các bà cũng
không cần làm người chứng về vị trí của ngôi mộ như trong Mc 15,47, bởi vì bây giờ Đức Giêsu được mai táng không phải trong
bất cứ ngôi mộ nào, nhưng là trong ngôi mộ gia đình của bạn đồng môn là ông
Giôxếp, nên vị trí ngôi mộ được biết rõ. Thế thì tại sao lại nhắc đến các phụ nữ?
Tác giả chỉ nói rằng họ “ngồi đối diện” (kathêmenai
apenanti) với ngôi mộ. Họ có mặt để làm gạch nối với truyện Phục Sinh: bây
giờ các bà biết rằng trong mộ, thi hài của Đức Giêsu đang được đặt ở đó, để rồi
đến sáng ngày thứ nhất trong tuần, các bà sẽ là những người đầu tiên khám phá
ra ngôi mộ trống và gặp Đức Giêsu phục sinh (28,1-10), và sẽ thành những người
đi loan báo sự Phục Sinh cho các môn đệ (28,10-11). Vậy các bà sống trước “cuộc
canh thức Vượt Qua” mà nay các chúng ta cử hành. Ngôi mộ là con dấu đóng trên
cuộc đời trần thế của Đức Giêsu; nhưng câu truyện từ đây sẽ bắt đầu lại cho một
diễn tiến mới.
* Mt 27,62-66 – Mồ được canh giữ
Phân
đoạn này tường thuật những gì xảy ra tại dinh Philatô và tại mộ Đức Giêsu vào
ngày sau khi an táng Đức Giêsu, nghĩa là kể lại cách các thượng tế, với phép
của Philatô, đã niêm phong ngôi mộ và đã đặt tại đó một toán lính canh.
Tác
giả Mt kể cho biết các thượng tế và
người Pharisêu đã quy tụ (synagesthai) đến dinh Philatô vào ngày hôm sau
việc chuẩn bị ngày sabát. Vào lần thứ nhất (26,3), họ đã quyết định bắt và giết
Đức Giêsu; vào lần thứ hai (26,57), họ đã yêu cầu kết an Người tử hình; bây giờ
họ muốn đảm bảo là thi hài của Người được giữ yên trong mộ. Sẽ đến một lần thứ
tư (28,12), khi đó họ bảo lính tráng cứ phao tin thất thiệt là thi hài của Đức
Giêsu đã bị đánh cắp. Tất cả nỗ lực của họ đều tập trung vào một Giêsu đã chết.
Cùng với các thượng tế, nhóm Pharisêu tỏ ra là những đối thủ chống phá quyết
liệt nhất cả bản thân lẫn công trình của Đức Giêsu.
Chính
các thượng tế đã nộp Đức Giêsu cho Philatô để đạt được cái chết cho Người
(27,1t). Kể từ đó, tất cả những gì liên hệ đến Đức Giêsu đều tùy thuộc quyết
định của Philatô, như ta đã thấy qua việc Giuse Arimathê xin thi hai Đức Giêsu
(27,57). Còn các thượng tế và các người Pharisêu tìm cách đảm bảo là thi hài
của Đức Giêsu vẫn còn trong mộ. Họ xin Philatô giữ sao cho ngôi mộ không bị xâm
hại cho đến ngày thứ ba.
Lời
thỉnh cầu của họ dựa trên một cái nhìn về quá khứ, nghĩa là về các lời tiên bào
của Đức Giêsu là Người sẽ sống lại, và cũng dựa trên một cái nhìn về tương lai,
nghĩa là về lời các môn đệ Đức Giêsu loan báo Thầy đã sống lại. Họ vẫn nhớ tất
cả các thông tin về cuộc phục sinh của Đức Giêsu, àm họ coi là lừa dối dân
chúng . theo họ lý luận, nền tảng duy nhất cho các sứ điệp ấy rất có thể là một
cuộc cưới xác. Do đó họ ra sức ngăn chặn cuộc trọm xác này. Chi tiết lính canh
mộ cũng cho hiểu là sự dữ đang thắng thế: Đức Giêsu dường như hoàn toàn thất
bại; nhà giải phóng đã bị khóa miệng và nay được an táng trong mồ rồi.
Khi
thưa với Philatô bằng danh hiệu “ngài” (kyrie; chỉ có ở đây) họ đã công
nhận ông là người làm chủ hoàn cảnh và có quyền lấy một quyết định (keleuson,
“xin quan lớn truyền”); họ không quan tâm đến chuyện có một “Chúa” khác.
Họ
không nói tên Giêsu ra, nhưng gọi Người bằng một tên khinh bỉ: “tên bịp
bợm ấy” (ekeinos ho planos) (x. Mt 24,11; Ga 7,12.47) và
nhắc lại một lời Người đã nói khi còn sống. Mặc dù đã đưa được Người đến cái
chết, họ vẫn còn sợ những hậu quả của lời Người giảng dạy. Họ nói đến “trỗi dậy
vào ngày thứ ba”. Chúng ta không rõ họ ghi nhận điều này vào dịp nào (còn các
môn đệ: 16,21; 17,23; 20,19). Họ xin Philatô lấy một quyết định liên hệ đến ba
điểm phải tránh: việc các môn đệ di chuyển thi hài Đức Giêsu; loan báo cho dân
chúng rằng Đức Giêsu đã sống lại; chuyện bịp cuối cùng này sẽ tệ hại hơn chuyện
trước. Đây là các hậu quả dây chuyền. Ta hiểu các thượng tế đang tự giới thiệu
như là những người bảo vệ chân lý và che chở dân chúng. Chúng ta ghi nhận là ở
đầu và ở cuối chương nói về cái chết của Đức Giêsu, chúng ta gặp các thượng tế
bên cạnh Philatô. Vả hai lần, Philatô đều để mặc cho các thượng tế lấy các biện
pháp (x. 27,24 và 27,65). Lần này, Philatô giao cho họ cho một toán lính. Ông
đổ hết trách nhiệm lên họ: “theo cách các ngươi biết”. Đây cũng là những biện
pháp con người lấy đối lập với quyền năng của Thiên Chúa. Và họ đã làm hai
việc: niêm phong mộ và cắt lính canh (c.
66).
+ Kết luận
Bài
tường thuật cuộc Thương khó của Đức Giêsu đã được mỗi tác giả Tin Mừng viết lại
theo bút pháp riêng. Độc giả bắt gặp được ở đấy các đau khổ, thể lý và luân lý,
của Đấng Cứu thế, nhưng đấy không phải là ý nhắm của các ngài. Ngược lại, các
ngài gỡ Đức Giêsu khỏi mọi nỗi lo lắng, sợ hãi, quay quắt, ngờ vực, khi cho ta
thấy Người làm chủ tình hình với một uy quyền tối cao. Mt cũng cho thấy Đức
Giêsu chiến đấu không phải là với sự yếu đuối của một con người, nhưng với sự
sáng suốtvà sức mạnh của một Thiên Chúa. Trong những đau đớn cùng cực của cuộc
đóng đinh, không một tiếng rên rỉ, tiếng thét gào thốt ra trên môi miệng Người.
Quả thật, tác giả có nhắc lại các giờ phút cuối cùng của một cuộc tử đạo, nhưng
đầy tính cách thần linh; ngài không nhắm gợi lên sự thương cảm, nhưng là sự
thán phục và tin tưởng nơi Người. Cho dù bị kết án tử hình, Đức Giêsu vẫn là
Đấng Cứu thế, Con Người, Đức Chúa (26,22.64; 27,43). Thay vì gặp mặt đối mặt
với Đức Kitô lịch sử, khiêm nhường và đau khổ, độc giả lại tiếp cận với Chúa
Kitô Phục Sinh.
Cuộc
Thương Khó cho thấy sự hạ mình thẳm sâu của Đức Kitô, nhưng cũng là bằng chứng
về lòng vâng phục tối cao của Người với Chúa Cha. Đây không phải là một thất
bại, mà là một chiến thắng. Tại đây, chúng ta gặp vấn đề của các cộng đoàn tiên
khởi: không phải là làm cho người ta chấp nhận cuộc Thương Khó của Đấng Cứu thế,
mà là chấp nhận tình trạng hiện tại của Người là Đức Chúa vinh quang, mặc dù có
kết cục nhục nhã.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Đức Giêsu không thiếu kín đáo mà tố giác
Giuđa; Người nhắc nhở, để ông có thể xét lại và quay lại, nhưng ông không nói
gì cả: ông lưỡng lự hoặc ông không muốn quay lại. Để soi sáng và trấn an các
môn đệ và có lẽ cũng để cố gắng kéo Giuđa trở về thêm một lần nữa, Đức Giêsu
nhận định và tình hình: đây không phải là chuyện không may do người môn đệ phản
bội, nhưng là điều nằm trong chương trình của Chúa Cha. Số phận của Đức Giêsu
do Chúa Cha quyết định, nhưng điều này không xóa đi hay giảm thiểu trách nhiệm
của kẻ phản bội: “Thà người đó đừng sinh ra thì hơn” (26,24).
2. Với sự giúp đỡ của Philatô, các đối thủ
của Đức Giêsu đã khử trừ được Người. Cái chết của Đức Giêsu đã kết thúc ảnh
hưởng của Người trên dân chúng. Đối với dân chúng, Người là một tên lừa bịp
(27,63); đối với Thiên Chúa, Người là một kẻ nói phạm thượng (26,65). Kiểu nói
“tên bịp bợm ấy” tổng hợp cách giới lãnh đạo Do Thái đánh giá công trình của
Đức Giêsu. Tuy nhiên, điều vẫn còn đó và sẽ có thể tiếp tục gây ảnh hưởng trên
dân chúng, đó là các lời Người đã nói và các môn đệ của Người.
3. Trong tiệc Thánh Thể, như trong tiệc
Vượt Qua xưa kia, tín hữu không được chỉ ở tư thế khán giả, nhưng phải cảm thấy
mình được lôi kéo can dự vào trực tiếp. Thánh Lễ cũng tái diễn lễ Vượt Qua, nên
người tham dự không chỉ tưởng niệm cuộc giải phóng của một đoàn dân xa lạ,
nhưng sống biến cố giải phóng chính mình.
4. Các môn đệ đã hoàn toàn thất bại khi ở
trong Vườn Ôliu với Đức Giêsu. Họ không canh thức nổi với Người (c. 38); họ
ngủ. Trong Kinh Thánh, giấc ngủ đồng nghĩa với cái chết, sự bất động, sự tê
cứng. Ít ra các trinh nữ quên mang dầu cũng cìn thú nhận thiếu sót của mình; ở
đây các môn đệ nói được một lời cáo lỗi. “Mắt họ nặng trĩu” (c.43), nhưng như
thế có nghĩa là họ hoàn toàn quên, hoàn toàn ở ngoài tấn bi kịch lớn nhất mà họ
đang chứng kiến: Đức Giêsu đi vào cuộc Thương Khó của Người, nhưng cộng đoàn đã
không đi theo Người.