sỰ
hưỚng dẪn và che chỞ cỦa Thiên Chúa
(Mátthêu
2,13-15.19-23 – Thánh Gia Thất - A)
1.- Ngữ cảnh
Bản văn đưa chúng ta đi
vào tấn bi kịch: Vừa chào đời, Hài Nhi Giêsu đã bị vua Hêrôđê tìm cách tiêu
diệt. Toàn bản văn có hai nét tiêu biểu: (1) Cuộc sống của Hài Nhi bị đe dọa,
và vì thế, công trình cứu thế cũng bị đe dọa; (2) Thiên Chúa che chở Hài Nhi.
Bản văn không hề có chút gì là màu sắc lãng mạn: các biến cố được mô tả rất đơn
giản, y như thể là bài tường thuật về một sự kiện thời sự.
2.- Bố cục
Có thể chia bản văn Mt
2,13-21 thành ba phần, cuối mỗi phần có một ghi nhận về sự hoàn tất các sấm
ngôn:
1)
Cuộc đi trốn sang Ai Cập (2,13-15);
2)
Mối đe dọa thật trầm trọng (2,16-18);
3)
Mối đe dọa chấm dứt – Trở về quê hương (2,19-21).
Bản
văn phụng vụ không đọc phần thứ hai.
3.- Vài điểm chú giải
-
trốn sang Ai Cập (13): Đây là miền đất những người Do
Thái bị bách hại thường tìm đến mà ẩn náu (x. 1 V 11,40; 2 V 25,26),
nhất là từ khi xảy ra các xáo trộn thời Macabê. Rất có thể Giuse đã đến Arít,
phía nam Gada: đến được đó, thì đã coi như ngài đã ở trên đất Ai Cập; vùng này
được Rôma trực tiếp kiểm soát từ năm 31 tCN. Dù thế nào, đi từ Bêlem xuống Ai
Cập chỉ mất năm hay sáu ngày.
-
Ta đã gọi con Ta ra khỏi Ai Cập (15): Mt trích sách
ngôn sứ Hôsê Hípri với chi tiết “con Ta”, còn Bản LXX thì viết là “các
con của nó”. Lời sấm Hs gợi đến cuộc Xuất hành của Israel, vì khi đó họ
đã được gọi là “con Ta” ở Xh 4,22.
Theo cách Mt đặt Israel và Đức Giêsu song đối với nhau, ta phải kết luận
rằng Đức Kitô sáp nhập dân mới của Thiên Chúa, tức là Hội Thánh, vào bản thân
Người và Người sẽ lôi kéo dân mới này đi theo trong cuộc Xuất hành cánh chung
của Người.
-
giết tất cả các con trẻ ở Bêlem và toàn vùng lân cận, từ hai tuổi trở xuống (16): Rất có thể con số các trẻ em bị giết không vượt quá hai mươi, do mật
độ dân số thưa thớt và tỷ lệ sinh ít ỏi ở Bêlem thời đó (theo tính toán của D.
Buzy).
-
tính theo ngày tháng ông đã hỏi cặn kẽ các nhà chiêm tinh (16): Ta có cảm tưởng là điều này không thật, bởi vì vua Hêrôđê có thể dễ
dàng cho người đến Bêlem mà tìm ra ngôi nhà đã được các hiền sĩ đến thăm. Câu
trích Gr 31,15 và giọng văn rất giản
dị khiến người ta nghĩ bản văn này là một bài giáo lý hơn là một tư
liệu lịch sử. Tuy nhiên, chứng giận dữ điên cuồng mù quáng dại dột của nhà vua
thì rất phù hợp với những gì chúng ta biết được về những năm cuối đời ông.
-
Ở Rama, vẳng nghe tiếng khóc than rền rĩ: tiếng bà Rakhen khóc thương (18): Bản văn trích từ Gr 31,15
dường như là một bản dịch tóm bản văn Hípri. Vị ngôn sứ cho thấy bà Rakhen,
mẹ của Giuse (các chi tộc Épraim và Mơnase) và Bengiamin, trỗi dậy từ ngôi mộ
của bà gần Rama (khoảng 8 cs về phía bắc Giêrusalem) mà khóc trên nỗi bất hạnh
của các cháu chắt bà, vì họ đang bị người Átsua đưa đi lưu đày (khoảng năm 722
tCN). Truyền thống Do Thái đã lầm khi xác định Éprát, nơi có mộ bà Rakhen, là
Bêlem (St 35,19), nhưng giúp cho tác
giả Mt có cơ sở mà liên kết bản văn Giêrêmia với hoàn cảnh hiện
tại. Tuy nhiên, để hiểu ý hướng của Mt khi quy chiếu về chương này của Gr,
cần thấy rằng các câu sau (Gr
31,16-17) giới thiệu một bầu khí khác, đưa tới lời Thiên Chúa hứa lập
một giao ước mới với nhà Israel (Gr
31,31-33). Theo Mt, việc Đức Giêsu trở về từ Ai Cập đánh dấu bước đầu
hoàn tất lời sấm ấy: “giao ước mới” được Gr tiên báo, này đang đi dần
tới chỗ được thực hiện nơi bản thân Đức Giêsu.
-
vì những kẻ tìm giết Hài Nhi đã chết rồi
(20): Câu này trích từ Xh 4,19 (“Đi
đi, hãy trở về Ai Cập, bởi vì mọi kẻ tìm cách làm hại mạng sống ngươi đã chết
cả rồi”).
-
Áckhêlao (22): Ông cai trị miền Giuđê từ năm 4 tCN đến
năm 6 CN. Mt không nói vì sao Giuse muốn rời bỏ miền đất do Áckhêlao cai
trị. Lịch sử cho biết Áckhêlao cũng độc ác như vua cha, nhưng không thông minh
và khôn khéo về chính trị như vua cha. Mt không nói lý do, có lẽ vì muốn
để cho quyết định của Giuse hoàn toàn lệ thuộc sự hướng dẫn của Thiên Chúa.
-
Người sẽ được gọi là người Nadarét (23): Qua sự kiện
Đức Giêsu về ở tại Nadarét, Mt thấy nhiều bản văn ngôn sứ được ứng
nghiệm. “Người Nadarét” là nazôraios trong tiếng Hy Lạp. Nhưng nazôraios
cũng còn có thể có hai nghĩa sau:
(1)
Nazôraios có quan hệ với naziraios (LXX) là từ ngữ dẫn xuất từ từ
ngữ Hípri na-dia (nazýr). Na-dia là một người “biệt
cư”, một vị “thánh”, như Samsôn
(x. Tl 13,5-7: đoạn này thường được
liên kết với Mt 1–2), phải tuân giữ
những luật lệ nghiêm ngặt. Luca giới thiệu Gioan Tẩy Giả (Lc 1,15), và Đức Giêsu (1,35), như một
na-dia, kế thừa các vị thánh Cựu Ước.
Thật ra, văn cảnh Mt 1–2 khó phù hợp với ý tưởng về truyền
thống na-dia này.
(2)
Nazôraios có quan hệ với từ Hípri nêser, “mầm mống, chồi lộc” (x.
Is 11,1; Gr 23,5; 33,15; Dcr 3,8;
6,12). Đấng Mêsia được gọi bằng tên này để diễn tả thân phận thấp hèn, khiêm
tốn.
Từ
này yếu hơn từ trước về phương diện ngữ học, nhưng lại phù hợp với văn cảnh Mt
ch. 2 hơn.
4.- Ý nghĩa của bản văn
Trong
bản văn chúng ta đọc hôm nay, tác giả Mt diễn tả rõ ràng hình ảnh Đấng
Mêsia bị dân Người loại trừ và bách hại. Ông cũng theo sát quan niệm của các
kinh sư về một cuộc Xuất hành mới vào thời cánh chung mà trình bày loạt
các biến cố này như một cuộc Xuất hành mới, tiên báo cuộc Xuất hành cuối
cùng của lịch sử nhân loại mà Đức Giêsu sẽ thực hiện qua sứ vụ của Người: ở đây
cũng có một ông vua sát hại các trẻ em Do Thái; nhưng cũng như Môsê đã
được mang đi giấu và được cứu, Đức Giêsu cũng thoát khỏi cái chết; Thiên Chúa
đã gọi Israel ra khỏi Ai Cập, bây giờ chính là Đức Giêsu, Israel mới, ra khỏi Ai
Cập.
*
Cuộc đi trốn sang Ai Cập (13-15)
Giuse
được Thiên Chúa giao cho nhiệm vụ che chở và bảo vệ Maria và Hài Nhi (1,20t) và
ngài đã vâng lời chấp nhận nhiệm vụ (1,24t). Kể từ đó, ngài sống là để phục vụ
mẹ con Hài Nhi. Điều ngài phải làm, đã được biểu lộ đặc biệt vào dịp Hài Nhi bị
đe dọa. Ba mệnh lệnh ngài nhận được từ Thiên Chúa luôn luôn có nguyên do là
hoàn cảnh hiểm nghèo này (2,13.20.22). Thật ra lệnh Thiên Chúa đã được hiểu
ngầm trong hoàn cảnh, bởi vì hoàn cảnh diễn tả điều mà Giuse được yêu cầu làm
để bảo vệ Hài Nhi. Hành động của Giuse được xác định như là cách ứng xử do hoàn
cảnh bó buộc dưới sự hướng dẫn của Thiên Chúa. Tương ứng với mỗi lệnh là việc
Giuse thi hành chính xác điều được yêu cầu (2,14.21.23). Giuse vâng lời Thiên
Chúa theo sát mặt chữ và tức khắc (ngay trong đêm; không biết ngày về). Luật
tối thượng của đời sống ngài là ý muốn của Thiên Chúa, Đấng đã giao phó Hài Nhi
cho ngài.
Hài
Nhi luôn luôn được nhắc đến cùng với mẹ Người (2,13.14.20.21). Tuy nhiên, tác
giả không nêu tên bà. Maria không được nhắc đến vì chính mình, nhưng vì công
việc phục vụ từ mẫu bà cống hiến cho Hài Nhi, và Hài Nhi phải nhờ đó mà sống.
Cũng như Giuse được giao cho nhiệm vụ che chở Hài Nhi khỏi các nguy hiểm bên
ngoài, Maria được giao cho bổn phận săn sóc Hài Nhi để Hài Nhi lớn lên. Giuse
và Maria có những nhiệm vụ khác nhau, nhưng tại trung tâm đời sống các ngài, có
công việc giống nhau là phục vụ Đức Giêsu.
Khi
kết thúc bài tường thuật đầu tiên này, tác giả Mt đã vận dụng bản văn Hs
(11,1) không phải để nói về cuộc trốn sang Ai Cập, nhưng là chuyến đi từ Ai Cập
về đất Israel. Bằng cách này, ngài muốn đề cao ơn gọi thiên sai của Đức Giêsu
(sẽ được công bố tại sông Giođan), như xưa kia, dân Do Thái, khi được gọi ra
khỏi Ai Cập, đã trở thành dân “sở hữu” của Thiên Chúa (Xh 19,5).
*
Mối đe dọa thật trầm trọng (16-18)
Lối
xử sự của vua Hêrôđê hoàn toàn ngược lại với lối xử sự của Maria và Giuse. Hai
đấng che chở và săn sóc Hài Nhi, còn vua Hêrôđê thì muốn loại trừ Người, khi
ông cảm thấy vương quyền của ông bị ấu chúa dân Do Thái đe dọa (2,2). Ông đã
coi vương quyền của ông như mục tiêu tự nó có giá trị; ông bị chiếm hữu bởi ý
chí hùng cường. Do đó, ông chỉ có một mối bận tâm, là vận dụng mọi
phương tiện để đảm bảo vương quyền, kể cả vi phạm bổn phận đầu tiên của một vị vua, là che chở thần dân mình: như mục tử
chăm sóc đoàn chiên, một vị vua cũng phải săn sóc dân mình (x. 2,6). Hêrôđê đã
xúc phạm đến sự sống của dân ông, khi cho sát hại các hài nhi. Vì muốn loại trừ
Đấng mà ông đang tìm kiếm, ông muốn chắc chắn nên đã gây ra cuộc tàn sát các
hài nhi Bêlem. Ở đây Hêrôđê là hình ảnh của Pharaô ngày xưa tái hiện, vì trước
Xuất hành, Pharaô đã giết các trẻ nam Israel (x. Xh 1,15-22).
3)
Mối đe dọa chấm dứt – Trở về quê hương (2,19-21)
Cái
chết của vua Hêrôđê đã loại trừ nguy hiểm, nên Thánh Gia có thể trở về quê. Tuy
nhiên, vì sợ Hêrôđê Áckhêlao, Giuse đã quyết định đưa Hài Nhi về Nadarét. Tác
giả nhận ra qua hành trình Hài Nhi theo để đi sang Ai Cập rồi trở về Nadarét là
chương trình của Thiên Chúa được hoàn tất. Lời ngôn sứ Hôsê 11,1 (“Ta đã gọi con Ta ra khỏi Ai Cập”) lúc đầu nhắm tới việc
dân Israel thoát ách nô lệ Ai Cập; nay vị trí của dân Thiên Chúa, Đức Giêsu,
trong tư cách là Con Thiên Chúa theo cách tuyệt đối đặc biệt (x. 3,17), đã
chiếm lấy. Công thức “Người sẽ được gọi là người Nadarét” không có trong bất cứ
sách ngôn sứ nào; chính Mt cũng không quy chiếu về vị ngôn sứ nào, nhưng
nói ở số phức “các ngôn sứ”. Câu văn ấy trước tiên cho thấy Đức Giêsu như là
người đến từ Nadarét. Đây có thể là một gợi ý đến Is 11,1, vì trong câu ấy, có loan báo về mầm chồi (nêser)
phát xuất từ gốc Giêsê như là Hoàng tử bình an, đầy Thần Khí và công chính;
cũng có thể gợi đến cả Gr 23,5;
33,15, vì ở đó có cho biết là dân chúng đang trông mong một vị vua công
chính và khôn ngoan như là một mầm chồi cho Đavít.
Chúng
ta ghi nhận là trong đoạn tường thuật cuối cùng này, Mt so sánh Đức
Giêsu với Môsê. Cũng như Môsê đã thoát chết cách huyền nhiệm (Xh 2,1-10) và đã trốn sang đất ngoại
quốc để tránh Pharaô (Xh 2,11-15)
trước khi đương đầu công khai với nhà vua theo lệnh Thiên Chúa, thì Đức Giêsu,
sau khi đã được tấn phong làm ngôn sứ (Xh
3,1-12), cũng thoát khỏi cuộc tàn sát và trốn bạo chúa (cc. 13-15), rồi lui về
Nadarét (c. 23) để tái xuất hiện và rao giảng công khai, sau khi được tấn phong
làm Mêsia khi chịu phép rửa (ch. 3–4). Nét tương đồng với Môsê được khẳng định
qua lời thiên sứ trích từ Xh 4,19.
Đến cuối cuộc xuất hành này, Đức Giêsu sẽ tái xuất hiện trên sân khấu xã hội Do
Thái dẫn đầu đoàn người đông đảo (4,25), và Người sẽ ban cho họ Luật mới (Bài
Giảng trên núi, ch. 5–7), như Môsê sau Xuất hành, tại núi Sinai.
+
Kết luận
Ý
muốn sát nhân của vua Hêrôđê đã bị sự che chở của Thiên Chúa triệt tiêu, mà lại
không dùng bất cứ phương tiện phi thường nào. Do biết đi trốn và biết khôn
ngoan nhận định tình hình, Giuse đã bảo vệ Con Trẻ được an toàn. Giuse đã là
một dụng cụ Thiên Chúa dùng; ngài vâng lời Thiên Chúa và ra sức hành
động để phục vụ sự sống của Hài Nhi. Do ý muốn của Thiên Chúa, Đức Giêsu đã đi
sang Ai Cập rồi về Nadarét, và thế là chương trình của Thiên Chúa được ứng
nghiệm (2,15.23). Những ai bị cuộc xuất hiện của Đức Giêsu “phá rối” thì vận
dụng mọi phương tiện để chống lại Người. Nhưng Đức Giêsu ở dưới sự che chở của
Thiên Chúa. Các dụng cụ Thiên Chúa dùng là các con người, được kêu gọi để phục
vụ Hài Nhi. Trong câu truyện vừa đọc, ta thấy rõ ý nghĩa của sự hiện diện của
Giuse và Maria đối với Hài Nhi Giêsu.
Đức
Giêsu vừa là Môsê mới (Ai Cập) vừa là con cháu Đavít (Bêlem). Cuộc trốn sang Ai
Cập không phải là một ngoặc đơn tình cờ trong định mệnh Đức Giêsu, nhưng
là một sự kiện đầy ý nghĩa nối kết định mệnh này với toàn thể lịch sử
Israel. Chương trình của Thiên Chúa đang
điều hành trọn vẹn cuộc đời Đức Giêsu.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Một em bé là một
con người yếu ớt, mong manh, không quyền lực, bị đe dọa trong cuộc sống. Em
không thể tự vệ, cũng không thể tự khẳng định. Chỉ nguyên chuyện tiếp tục sống,
em cũng cần được săn sóc và giúp đỡ. Em lại càng cần được che chở cách hiệu quả
và khôn ngoan để có thể thoát các nguy hiểm. Vô sô hài nhi đã trở thành nạn
nhân của chính tình trạng thiếu khả năng tự vệ. Hài Nhi Giêsu cũng thông dự vào
nguy cơ này. Làm sao khỏi cảm kích trước mầu nhiệm Nhập Thể đã đưa Con Thiên
Chúa đến chỗ chia sẻ thân phận con người như thế?
2. Giuse biết rõ
mình là ai và biết rõ mình phải làm gì và ngài sống đúng theo chiều hướng đó.
Ta không hề thấy Giuse bận tâm đến chút quyền lợi riêng tư nào. Ngài chấp nhận
mọi mệt nhọc, mọi mò mẫm; ngài chỉ có một mục tiêu là phục vụ sự sống
của Hài Nhi. Thiên Chúa là Đấng hướng dẫn và Giuse là người thi hành. Cuộc sống
Kitô hữu cũng có những mệt nhọc và những mò mẫm như đi trong đêm tối. Thiên
Chúa kêu gọi, Thiên Chúa hướng dẫn, nhưng Ngài không chỉ rõ con đường phải
theo. Ngài để cho con người suy nghĩ, vận dụng sáng kiến, mà cộng tác với Ngài.
3. Giuse và Maria
có những nhiệm vụ khác nhau, nhưng đều nhằm phục vụ Hài Nhi Giêsu. Thật ra công
việc phục vụ này không có gì đặc biệt, mà chỉ là công việc của một người
cha và một người mẹ như bất cứ cha mẹ nào: săn sóc đứa con, bảo vệ che
chở, làm cho nó lớn lên an toàn. Qua điểm này, chúng ta nhận ra sự hạ cố của
Thiên Chúa: Người chấp nhận sự săn sóc của loài người, các thọ tạo của Người.
Nhưng đấy cũng là một bài học cho chúng ta: cứ làm những việc bổn phận
thuộc bậc sống, chúng ta lại có thể đang thực hiện những điểm trọng yếu trong
lịch sử cứu độ.
4. Quyền bính của
Giuse, chủ gia đình, là một quyền bính trung gian. Ngài nhận các mệnh
lệnh từ Thiên Chúa và truyền đạt cho các thành viên trong gia đình. Như thế,
quyền bính này là một việc phục vụ. Mục tiêu Giuse nhắm không phải là
thỏa mãn chính mình, nhưng là phục vụ Con của mình bằng cách bảo vệ Con khỏi
nguy hiểm. Đức Maria và Đức Giêsu vâng lời Giuse, vì nhận ra nơi lời ngài có
Lời Thiên Chúa. Đây chính là sự hài hòa và bổ túc của các vai trò trong gia
đình: mỗi người được mời gọi sống ơn gọi của mình trong tình yêu và sự kính
trọng người khác.
5. Quyền lực được
giao là để phục vụ hạnh phúc của nhân dân. Như thế, gương phải theo khi thi
hành quyền lực là chính Thiên Chúa. Hêrôđê chỉ biết đến mục tiêu cá nhân, chứ
không hề quan tâm đến những con người, dù là những con người yếu đuối, vô tội.
Khi đó, mọi phương tiện đều tốt, kể cả sát hại hàng loạt những trẻ thơ vô tội.
Dĩ nhiên không ai trong chúng ta lại không rùng mình khi nghĩ đến sự tàn ác của
vua Hêrôđê, nhưng chúng ta có thể tự hỏi: Chúng ta có thật sự tôn trọng người
khác, vì họ là con cái Thiên Chúa, và anh chị em của chúng ta chăng, hay là đôi
khi chúng ta cũng nghĩ đến người khác chỉ như là phương thế để trục lợi, để
giải quyết mọi khúc mắc của chúng ta, rồi sau đó mau mắn bỏ rơi và quên mất họ?
6. Đoạn văn nói đến
diễn tả rõ ràng sự quan phòng của Thiên Chúa trên cuộc đời Đức Giêsu. Nhưng
quan phòng không có nghĩa là làm cho cuộc đời của Đức Giêsu tiến đi trên thảm
mịn, rải toàn hoa hồng. Đức Giêsu vẫn gặp đủ thứ thử thách. Nhưng Thiên Chúa
quan phòng đưa lại một ý nghĩa cho các thử thách, tháp chúng vào trong
một chương trình cứu độ (x. Rm
8,28).
Lm FX Vũ Phan Long, ofm