CHÚA NHẬT LỄ THÁNH GIA A
Hc 3,3-7.14-17a ; Cl 3,12-21 ; Mt 2,13-15.19-23
XÂY DỰNG HẠNH PHÚC NOI
GƯƠNG THÁNH GIA
I. HỌC LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG: Mt 2,13-15.19-23
(13) Khi các nhà chiêm tinh
đã ra về, thì kìa sứ thần Chúa hiện ra báo mộng cho ông Giu-se rằng:
“Này ông, dậy đem Hài Nhi và mẹ Người trốn sang Ai Cập, và cứ ở đó
cho đến khi tôi báo lại, vì vua Hê-rô-đê sắp tìm giết Hài Nhi đấy !”.
(14) Ông Giu-se liền trỗi dậy, và đang đêm, đưa Hài Nhi va mẹ Người
trốn sang Ai-cập. (15) Ông ở đó cho đến khi Hê-rô-đê băng hà, để ứng
nghiệm lời Chúa phán xưa qua miệng ngôn sứ: “Ta đã gọi con Ta ra khỏi
Ai-cập”.(19) Sau khi vua Hê-rô-đê băng hà, sứ thần Chúa lại hiện ra với
ông Giu-se bên Ai-cập, (20) báo mộng cho ông rằng: “Này ông, dậy đem Hài
Nhi và mẹ Người về đất Ít-ra-en, vì chưng kẻ tìm giết Hài Nhi đã
chết rồi. (21) Ông liền chỗi dậy, đưa Hài Nhi và mẹ Người về đất
Ít-ra-en. Nhưng vì nghe biết Ác-khê-lao đã kế vị vua cha là Hê-rô-đê,
nên ông sợ không dám về đó. Rồi sau khi được báo mộng, ông lui về
miền Ga-li-lê, (23) và đến ở tại một thành kia gọi là Na-da-rét, để
ứng nghiệm lời đã phán qua miệng các ngôn sứ rằng: “Người sẽ được
gọi là người Na-da-rét”.
2. Ý CHÍNH: XUẤT HÀNH TỪ AI
CẬP.
Tin Mừng hôm nay muốn nói lên tư tưởng Đức Giê-su là Đấng
Cứu Thế đã được Thiên Chúa bảo vệ khỏi bàn tay độc ác của bạo
vương Hê-rô-đê. Người là Mô-sê Mới, dẫn đầu dân Ít-ra-en Mới, xuất
hành ra khỏi Ai Cập trần gian để về miền Đất Hứa là thiên đàng đời sau.
3. CHÚ THÍCH:
- C 13-14: + Sứ thần Chúa hiện ra: Tin Mừng
Mát-thêu ghi lại 4 lần sứ thần Chúa hiện ra với ông Giu-se (Mt 1,20;
2,13; 2,19; 2,22). + Báo mộng cho ông Giu-se: Sứ thần Chúa hiện đến cùng
Giu-se trong giấc mộng và thay mặt Thiên Chúa ra lệnh cho Giu-se phải
làm theo. + Này ông, dậy đem Hài Nhi và mẹ Người trốn sang Ai Cập:
Lệnh truyền này nói lên sự can thiệp của Thiên Chúa để bảo vệ Hài
Nhi Cứu Thế. Ai Cập là một nước lớn nằm sát bên nước Do thái về
phía Nam, và là nơi những người Do thái bị ruồng bắt thường tìm đến
lánh nạn (x. 1V 11,40). Đi từ Bê-lem tới Ai Cập mất khoảng 5-6 ngày
đường. + Vì Hê-rô-đê sắp tìm giết Hài Nhi đấy: Hài Nhi Giê-su
được đem sang Ai Cập để trốn khỏi sự khủng bố của vua Hê-rô-đê độc
ác, giống như Mô-sê ngày xưa cũng phải trốn khỏi sự ruồng bắt của
Pha-ra-ô nước Ai-cập (x. Xh 2,15). + Ta đã gọi con Ta ra khỏi Ai Cập”:
Câu này rút ra từ sách ngôn sứ Hô-sê (x. Hs 11,1), nói về cuộc Xuất
hành của dân Ít-ra-en xưa. Khi đó dân Ít-ra-en đã được Đức Chúa gọi là
“con Ta” (x. Xh 4,22).
- C 19-20: + Thánh gia trốn sang Ai-cập trong thời gian bao lâu: Khoảng từ vài tháng tới 3 năm. Giả sử thánh gia được
triệu về ngay sau khi Ác-khê-la-ô lên kế vị (năm 750 tức khoảng năm thứ
4 đến thứ 6 sau Công Nguyên), thì thời gian ở bên Ai-cập của Thánh Gia
không thể quá 3 hay 4 năm được. + Công Nguyên là gì: Công Nguyên
hay Kỷ Nguyên Chung được tính bắt đầu từ năm Chúa Giáng Sinh. + Sứ
thần Chúa lại hiện ra với ông Giu-se bên Ai-cập: Khi vua Hê-rô-đê
Cả chết, ông Giu-se lại được sứ thần Chúa hiện đến trong giấc mơ ra
lệnh cho ông mau đem Hài Nhi và mẹ Người trở về quê hương, vì mối nguy
đã chấm dứt với cái chết của vua Hê-rô-đê. + Vì những kẻ tìm giết Hài
Nhi đã chết rồi: Câu này chính là lời Đức Chúa báo cho Mô-sê
về cái chết của Pha-ra-ô Ai-cập (x. Xh 4,19). Đây là một bằng chứng
cho thấy Mát-thêu muốn ám chỉ Hài Nhi chính là Mô-sê của thời Tân
Ước.
- C 23: + Và đến ở tại một thành kia gọi là Na-da-rét: Thánh Gia về cư ngụ ở Na-da-rét là ứng nghiệm lời sấm
đã phán qua miệng các ngôn sứ rằng: “Người sẽ được gọi là người
Na-da-rét”. Ta có thể hiểu rằng Mát-thêu dùng danh xưng này để ám
chỉ việc tự hạ của Đấng Cứu Thế. Nói Đấng Cứu Thế là người
Na-da-rét cũng giống như nói Người đã bị người đời miệt thị khinh dể
vậy.
4. CÂU HỎI:
1) Tại sao Giu-se phải đem
Hài Nhi và mẹ Người trốn sang Ai-Cập ? 2) Thánh Gia trốn sang Ai Cập
đến khi nào về ? 3) Tại sao Giu-se lại đem Hài Nhi đến ở thành
Na-da-rét ?
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: Ông Giu-se liền
trỗi dậy, và đang đêm, đưa Hài Nhi và mẹ Người trốn sang Ai-cập (14):
2. CÂU CHUYỆN: TẦM QUAN
TRỌNG CỦA GIỜ KINH TỐI GIA ĐÌNH:
Một cha xứ kia đi thăm các gia đình trong xứ để kiểm tra
nhân danh. Gặp một đôi vợ chồng không đọc kinh tối gia đình, cha hỏi:
“Gia đình ông bà có đọc kinh chung gia đình không ?”. Họ trả lời không,
vì con cái phải đi học thêm hay phải đi làm theo ca. Ông phải ưu tiên kiếm
sống cho gia đình như người ta thường nói: “Có thực mới vực được đạo !”
Bấy giờ cha xứ lại hỏi: “Nếu ông bà biết rõ là nhờ đọc kinh tối hàng
ngày mà một đứa con sẽ tránh được cơn bệnh hiểm nghèo, tránh được
một tai nạn; Nhờ đọc kinh tối mà chúng mới có công ăn việc làm đều đều,
chúng mới có đủ sáng suốt để làm bài thi; Nhờ đọc kinh mà các linh
hồn tiên nhân ông bà cha mẹ và những người thân đã chết sẽ sớm được lên
thiên đàng… thì ông bà có tổ chức đọc kinh gia đình hàng ngày không ?”
Họ trả lời: “Có thể chúng con sẽ đọc”. Cha xứ lại hỏi: “Giả như gia
đình làm ăn thất bại phải mang nợ tới 100 triệu đồng, khó lòng trả nợ
cả vốn lẫn lãi, mà nếu ngày nào có đọc kinh tối 15 phút, thì gia
đình sẽ được chủ nợ trừ bớt số lời 100.000 đồng, thì ông bà có đọc
kinh tối chung không ?”. Bấy giờ ông kia hỏi lại: “Thưa cha, cha hỏi như
vậy để làm gì ?” Bấy giờ cha xứ mới ôn tồn trả lời: “Tôi nói như
vậy để cho thấy nguyên nhân gia đình ông bà không đọc kinh tối, không
phải vì không có thời giờ hay vì bận làm việc, mà lý do chính là vì
nghĩ rằng đọc kinh tối gia đình là điều vô ích. Chỉ cần đi lễ nhà
thờ đã đủ. Tôi hỏi vậy để cho thấy việc đọc kinh cũng quan trọng
không kém việc giữ gìn sức khỏe và sự an toàn của các người thân trong
gia đình, cũng có giá trị như một số tiền thiêng liêng, giúp bớt
phần phạt cho các thân nhân ông bà đã qua đời, và giá trị của việc
đọc kinh cũng có thể tương đương với số tiền cần chi dùng hàng ngày”.
3. SUY NIỆM: LÀM THẾ NÀO
ĐỂ GIA ĐÌNH ĐƯỢC HẠNH PHÚC ?
1) Nguyên nhân đổ vỡ hạnh phúc
là do không sông đúng vai trò trong gia đình: Mỗi
người cần phải sống đúng vị trí của mình là chống, vợ hay con cái:
Một tờ báo ở Luân-đôn nước Anh đã mở một cuộc điều tra các ông
chồng, yêu cầu họ thành thật trả lời câu hỏi: “Trong gia đình bạn, ai
là người thực sự có quyền quyết định mọi việc ?” Kết quả cho thấy có
80% câu trả lời: “Vợ tôi làm chủ”, 15% trả lời “Mẹ vợ tôi làm chủ”.
Chỉ có một số rất ít trả lời: “Chính tôi làm chủ, vì vợ tôi đã qua
đời !” Như vậy, không lạ gì Anh quốc là nước số gia đình ly hôn chiếm
tỷ lệ cao nhất: Mỗi năm cứ hai đám cưới thì có một đám đâm đơn ra
tòa xin ly hôn.
2) “Thuận vợ thuận chồng,
tát bể Đông cũng cạn”: Vợ chồng phải bàn bạc
trao đổi với nhau trong mọi việc: Phải một lòng một ý về việc: cư
xử với tha nhân, nuôi dạy con cái, mua sắm đồ dùng trong nhà, làm ăn
sinh sống… Vì “Thuận vợ thuận chồng, tát bể Đông cũng cạn”, và “Phu
phụ hòa, gia đạo thịnh”.
3) Gia đình phải có Chúa
hiện diện: Thực vậy, nếu gia đình thực sự
có đức tin, có lòng đạo đức, thì sẽ thương yêu và nhường nhịn lẫn
nhau. Chồng thương yêu vợ, vợ yêu thương chồng, con cái thảo kính cha
mẹ và thương yêu nhau. Trong đời sống vợ chồng, chắc sẽ có lúc vui lúc
buồn, nhiều khi vợ chồng còn phải vác thánh giá của nhau và phải vác
đến chết để đền đội.
4) Vợ chồng hãy chịu đựng lẫn
nhau: Trong một buổi tĩnh tâm dành cho gia trưởng, nhưng
cũng có nhiều bà vợ tham dự. Tới phần làm phép Thánh giá, cha
giảng phòng nói: “Ai có cây Thánh giá xin đem lên gần gian cung thánh
để được làm phép. Bấy giờ một ông lão thay vì mang cây Thánh giá
thì lại cõng bà vợ chân bị liệt lên. Tới lúc cha đến trước từng
người tay đang cầm thánh giá để rấy nước thánh. Thay vì giơ cây Thánh
giá lên như mọi người thì ông cụ lại cố giơ bà cụ lên cao trước sự
ngạc nhiên của mọi người. Ông nói: “Thưa cha, đây là thánh giá của
con. Xin cha làm phép để con được vác thánh giá này đến cùng !” Qua
lời nói của ông cụ, chúng ta hiểu người bạn đời chính là thánh giá
sống mà chúng ta phải mang từ khi lấy nhau cho đến hết. Vợ là thánh
giá của chống và ngược lại, chồng cũng là thánh giá của vợ. Ai trung
thành vác thánh giá ấy theo Đức Giê-su đến cùng, thì sau này hy vọng sẽ
được sống lại với Người và cùng được hưởng hạnh phúc với Người.
4. THẢO LUẬN:
1) Các gia trưởng và hiền
mẫu Công giáo cần học tập những gì nơi thánh Giu-se và Mẹ Ma-ri-a để
gia đình được hạnh phúc ? 2) Nguyên nhân làm cho các gia đình đổ vỡ ly
hôn là gì ? Khi xảy ra ly hôn thì trong hai vợ chồng ai là người có
lỗi hơn ? 3) Bạn có đồng ý với câu: “Con hư tại mẹ, cháu hư tại bà”
không ? Tại sao ?
5. NGUYỆN CẦU:
- LẠY CHÚA GIÊ-SU. Mỗi lần tham dự thánh lễ hôn phối, con
thấy đôi tân hôn thật là hạnh phúc: Với nét mặt rạng rỡ và trong bộ
y phục trắng đẹp mới tinh, họ đi bên nhau lên cử hành hôn lễ. Nhưng
rồi năm tháng qua đi, con lại thấy gia đình họ lại biến thành hỏa
ngục trần gian, khi “kẻ thì khóc lóc đau khổ, người lại nghiến răng
giận hờn”. Lý do đổ vỡ hạnh phúc có rất nhiều: Tại tính xấu của
người này hay tại thói hư của người kia ? Theo con nghĩ thì “tại anh
tại ả tại cả đôi đàng !”. Tại hai người đã không biết nuôi dưỡng
tình yêu ban đầu. Tình yêu có đặc điểm là không đòi hỏi nhau, nhưng
là hy sinh cho nhau. Cây tình yêu của hai vợ chồng rất cần được bắt đi
những con sâu đục khoét hạnh phúc gia đình như: Sâu ích kỷ “chỉ nghĩ
đến mình”, sâu độc đoán hẹp hòi, sâu vô trách nhiệm khi say sỉn cờ
bạc hút sách, sâu tình cảm bất chính vụng trộm… Tình yêu cũng đòi
phải được tưới bón bằng lời cầu nguyện cho nhau, bằng những lời khen
tặng nhau cách thành thật, bằng những lời nói cử chỉ âu yếm dành
riêng cho nhau.
LẠY CHÚA, xin ban cho các gia đình tín hữu chúng con luôn
“trên thuận dưới hòa”, “một lòng một ý”. Xin giúp các đôi vợ chồng
trẻ biết cách duy trì tình yêu ban đầu. Xin cho họ biết “cho nhiều hơn
nhận”, biết “ân cần phục vụ” cho nhau, biết “quảng đại tha thứ và
nín nhịn các yếu đuối lỗi lầm” của nhau. Biết “nói ít làm nhiều”,
và “sẵn sàng vác thánh giá” là chịu đựng người bạn đời của mình”...
Nhờ đó các gia đình chúng con hy vọng sẽ trở thành thiên đàng trần
gian, là dấu chỉ chúng con sẽ được hưởng hạnh phúc thiên đàng vĩnh
cửu sau này.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON
LM ĐAN VINH - HHTM