Vạn Tuế Các Thánh Tử Đạo Việt Nam
MỪNG KÍNH CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT NAM
(Kn
3,1-9; Rm 8, 31b-39; Mt 10, 28-33)
Chúa nhật ngày 19/6/1988, thánh Giáo hoàng Gioan
Phaolô II đã nâng 117 vị chân phước tử đạo Việt Nam lên hàng hiển thánh. Dịp
khai mạc Năm Thánh 2010, Đức nguyên Giáo hoàng Bênêđictô XVI, trong sứ điệp gửi
các Giám mục Việt Nam có viết : « Việc
cử hành Năm Thánh trùng với ngày lễ kính 117 vị thánh Tử đạo hiển vinh của đất
nước Đức Cha. Việc nhớ lại chứng từ cao quý của các ngài sẽ giúp toàn thể dân Chúa
tại Viêt Nam kích động đức mến, gia tăng đức cậy và củng cố đức tin mà đôi lúc
bị thử thách bởi chính đời sống thường ngày » (Trích Sứ điệp gửi các Giám mục
Việt Nam dịp Năm Thánh 2010). Thư của Đức Cha Phêrô Nguyễn Văn Nhơn, Tổng Giám
Mục Hà Nội, nguyên Chủ tịch HĐGMVN gửi cộng đoàn Dân Chúa nhân dịp kỷ niệm 25
năm ngày tôn phong 117 Hiển Thánh Tử đạo Việt Nam có đoạn : « Đây là cơ hội giúp Dân Chúa Củng cố đức Tin
qua đức Cậy nhờ đức Ái (số 1) ; Giúp
cho Giáo hội Việt Nam sống chan hòa trong tình hiệp thông và hiệp nhất (số
2) ; Thúc đẩy chúng ta hăng say hơn
trong sứ vụ loan báo Tin Mừng (số 3) ; là dịp để cháu con noi gương các Ngài sống xứng đáng những người con thảo
của Cha trên Trời (số 4) ».
Những gợi ý sống trên làm chúng ta nhớ lại bài giảng
của thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II, ngày 19/6/1988 như sau : « Tôi biết rằng anh em đang ôm nặng ước nguyện
tôn vinh các vị Tử Đạo đồng hương, nhưng trong thâm tâm còn tự cảm thấy nhu cầu
đứng chung quanh các thánh, để xe kết tình huynh đệ kết nghĩa, mến thương … ».
Đọc lại lịch sử Giáo Hội Việt Nam, khởi đi từ những
bước chân thừa sai của các nhà truyền giáo. Sử liệu ghi lại sự đặt chân của
giáo sĩ Inikhu vào năm 1533 trên đất Việt,
tiếp theo là Gaspar da Cruz, Alexandre de Rhodes, Pedro Marques v.v. Ba trăm
năm loan báo Tin Mừng, một trang sử truyền giáo hào hùng, nhưng đầy đau thương
và đẫm nước mắt. Từng ngàn giáo dân tử đạo, từng trăm số người đã chết lưu lạc
trên núi, trong rừng sâu nước độc! Tuy nhiên, một trang sử mới đã mở ra nhờ sự
hy sinh tuyệt vời của các thừa sai, cũng như hàng hàng lớp lớp người vì tử đạo
đã nằm xuống với muôn cực hình cay đắng, khốn khổ. Dòng máu của các ngài đã đổ
ra, tuôn trào, tưới gội Hội Thánh Việt Nam, làm cho Hội Thánh lớn lên và phát
triển, không ngừng sinh hoa kết quả tươi tốt, đúng như lời Tertullien đã viết:
« Máu tử
đạo là hạt giống trổ sinh người tín hữu ».
Hôm nay đây, chúng ta hướng tâm hồn lên một cách đặc
biệt để mừng kính các ngài, trong hân hoan và hãnh diện. Chúng ta tôn vinh, tri
ân các ngài và cùng nhau hô vang : Vạn vạn tuế Các Thánh Tử Đạo Việt
Nam, vạn vạn tuế Các Thánh Tử Đạo anh hùng.
Làm sao kể lại cho hết tất cả 117 vị Tử Đạo, 1 vị á
thánh, trong số đó có 8 vị Giám Mục, 50 Linh Mục, 59 Giáo Dân, một phụ nữ,
Thánh Anê Lê Thị Thành, mẹ sáu người con. Còn có biết bao nhiêu vị cũng đã
« tử vì Đạo » mà chưa được
tuyên phong, cũng được mừng kính. Các ngài thuộc đủ mọi thành phần, tuổi tác,
hoàn cảnh sống : công chức, thương gia, công nhân, quân nhân, y sĩ, ngư phủ,
trùm họ v.v. Trong số đó, bao gồm cả một số những nhà truyền giáo « ngoại
quốc » Pháp, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Ý… đã đến Việt nam truyền Đạo và chết
vì Đạo.
Thánh Vinh Sơn Liêm, Dòng Đaminh là người Việt Nam tử
đạo đầu tiên năm 1733. Rồi tới Cha thánh Anrê Trần An Dũng Lạc bị trảm quyết
năm 1838. Các ngài đã phải chịu mọi thứ cực hình mà người ta có thể nghĩ ra được
như: gông cùm, xiềng xích, nhốt trong cũi, đánh đòn, bỏ đói, bị voi giầy, bị
trói ném xuống sông, bị đổ dầu lên rốn rồi cho bấc vào đốt, bị đóng đinh vào
ván rồi đem phơi nắng v.v. Quyết liệt hơn thì bị trảm quyết, tức là bị chặt đầu,
bị xử giảo, tức là bị thắt cổ, hay bị thiêu sống. Bị xử lăng trì, phân thây ra
từng mảnh hay là xử bá đao là những hình phạt man rợ và hiểm độc nhất. Tổng số
79 vị bị chặt đầu. 18 vị bị thắt cổ. 8 vị chết rũ tù. 6 bị thiêu sinh. 4 bị
phân thây ra từng mảnh. 1 bị tử thương và 1 bị bá đao.
Lời Chúa trích sách Khôn Ngoan : “Linh hồn những người công chính ở trong tay
Thiên Chúa và đau khổ sự chết không làm gì được các ngài” ( Kn 3, 1 ). Quả
quyết như trên có vẻ là không chính xác với thực tế lịch sử: thực ra đau khổ đã
va chạm thân xác các ngài đến ghê sợ như : tùng xẻo, lăng trì, chặt đầu.
Tuy nhiên, tác giả Kinh Thánh tiếp tục quảng diễn tư tưởng: «Đối với mắt người không hiểu biết, thì hình
như các ngài đã chết và việc các ngài từ biệt chúng ta, là như đi vào cõi tiêu
diệt. Nhưng thực ra các ngài sống trong bình an. Và trước mặt người đời, dầu
các ngài có chịu khổ hình, lòng cậy
trông của các nài cũng không chết » ( Kn 3, 2 – 4 ).
Đúng là : « Ai khôn mới biết hiến mình cho chân lý, để chiếm hữu phần gia nghiệp
muôn đời » (Thánh Phêrô Truật) ; « Thân xác tôi ở trong tay quan… nhưng linh hồn tôi là của Chúa, không có
gì khiến tôi hy sinh nó được » (Thánh Phaolô Tịnh)
Các ngài là chứng nhân cho Chúa Kitô đã toàn thắng sự
chết. Thay vì hình khổ ngắn ngủi, các ngài được nhiều ơn vĩ đại, « vì Thiên Chúa đã luyện lọc các ngài và thấy
các ngài xứng đáng, Chúa đã thử thách các ngài như thử vàng trên lửa và đã chấp
nhận các ngài như của lễ toàn thiêu » (Kn 3, 5- 6). Trong Chúa Kitô các ngài được Thiên Chúa cứu rỗi.
Chúng ta, dòng giống các vị tử Đạo. Hôm nay, hãy
nghe hết lời sách Khôn Ngoan: « Trong
ngày phán xét, người công chính sẽ chói sáng và chiếu tỏ ra như ánh lửa chiếu
qua bụi lau ». (Kn 3, 7) Những tia sáng, những ánh đèn phản chiếu nguồn
quang minh rữc rỡ. Và đây là câu sau cùng trong sách Khôn Ngoan: « Các ngài sẽ xét sử các dân tộc, sẽ thống trị
các quốc gia, và Thiên Chúa sẽ ngự trị trong các ngài đến muôn đời » (Kn 3,
17).
Xin các Thánh Tử Đạo Việt Nam giúp chúng con biết
chân thành chọn lựa đi theo Chúa, trung thành làm chứng cho đức tin và nhiệt
thành yêu mến Giáo hội bằng tinh thần cộng tác, hiệp thông và đồng trách nhiệm
trong sứ mạng loan báo Tin Mừng trên quê hương, đất nước chúng con. Amen.
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ