ĐỨc
Giêsu biẾn đỔi hình dẠng
(Mátthêu 17,1-9 – CN II MC - A)
1.- Ngữ cảnh
Cả ba Tin Mừng Nhất Lãm đều đặt câu truyện Hiển Dung vào cùng một chỗ,
tiếp sau lời tuyên xưng của Phêrô (Mc
8,27-30; Mt 16,13-20; Lc 9,22) và những lời Đức Giêsu nói về số
phận của môn đệ và vinh quang của Con Người (Mc 8,34–9,1; Mt 16,24-28;
Lc 9,23-27).
Riêng Tin Mừng Mt đóng khung
cuộc đời công khai của Đức Giêsu giữa hai ngọn núi:
-
Khi chuẩn bị ra đi thi hành sứ vụ: trên “một ngọn núi rất cao” (4,8),
quỷ đã cám dỗ Đức Giêsu nhận quyền bính và quyền hành trên toàn thế giới từ tay
nó: “Tôi sẽ cho ông tất cả những thứ đó, nếu ông sấp mình bái lạy tôi” (4,9).
Nhưng Người đã dứt khoát từ chối.
-
Khi kết thúc sứ mạng của Người và khởi đầu sứ mạng của các môn đệ, Đức Giêsu
gặp Nhóm Mười Một “tại ngọn núi Người đã truyền cho các ông đến” (28,16). Tại
đây Người tuyên bố là Người “đã được [Thiên Chúa] trao toàn quyền trên trời dưới
đất” (28,18) và dựa trên nền tảng này, Người sai phái các ông đi loan báo Tin Mừng
“cho muôn dân”.
Vì Người đã từ chối nhận mọi quyền hành từ tay quỷ mà bây giờ Người nhận
được mọi quyền hành từ tay Thiên Chúa.
-
Giữa hai biến cố nêu trên, có một biến cố khác cũng xảy ra trên một ngọn
núi cao: Đức Giêsu biến đổi hình dạng, Người có vinh quang Thiên Chúa: cuộc
khải hoàn Phục Sinh đã được giới thiệu trước. Và biến cố này đã xảy ra sau khi
Đức Giêsu gạt bỏ đề nghị của Satan qua miệng Phêrô là đừng đi theo đường lối
của Chúa Cha.
Theo văn cảnh xa, có thể nói bản văn chứa đựng biến cố Hiển Dung vừa tóm
lại các cám dỗ vừa đón trước cuộc diện kiến trên núi giữa Đấng Phục Sinh và các
môn đệ; chúng ta thấy ở đây có các yếu tố của hai tình trạng ấy của Đức Giêsu: Con
Thiên Chúa vinh quang và Đấng Mêsia phải chịu đau khổ; nổi bật lên như một gạch
nối là sự chọn lựa dứt khoát, thái độ cương quyết của Đức Giêsu để đi theo
thánh ý Chúa Cha. Điểm này được minh chứng theo văn cảnh gần: cuộc Hiển Dung
được đóng khung giữa hai lời loan báo về Khổ Nạn (16,21-23; 17,22-23).
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành phần:
1) Mở (17,1);
2) Thị kiến (17,2-8):
a) Mở đầu: Đức Giêsu biến đổi hình dạng,
b) Các tình huống: Môsê và Êlia hiện ra đàm
đạo; Phêrô đề nghị làm lều; tiếng Thiên Chúa phán,
c) Kết: các môn đệ sợ hãi; Đức Giêsu trấn
an; mọi sự trở lại như cũ;
3) Kết (17,9).
3.- Vài điểm chú giải
-
Sáu ngày sau (1): Theo Xh 24,13-16, Thiên Chúa tỏ mình ra cho Môsê trên núi Sinai sau sáu
ngày; và theo Đnl 16,13-15, đay là
ngày cuối cùng của Lễ Lều.
-
Phêrô, Giacôbê và Gioan (1): Ba môn đệ này lại
xuất hiện tại Ghếtsêmani (26,37).
-
một ngọn núi cao (1): Một quả núi là biểu tượng cho
nơi Thiên Chúa mạc khải. Ở đây hẳn quả núi này là một Sinai khác tại
Galilê. Truyền thống vẫn cho rằng đây là núi Tabo, mà Tabo thật ra chỉ là một
quả đồi. Nhưng hợp lý hơn, có lẽ là núi Cácmen hay Khétmôn. Đặc biệt trong Tin Mừng Mt, khi Đức Giêsu sắp làm một
việc gì quan trọng, Người thường lên núi: cuộc cám dỗ xảy ra trên núi cao
(4,8); các Mối Phúc được công bố trên núi (5,1); bánh được nhân ra nhiều trên
núi (15,19); và Nhóm Mười Một gặp Đấng Phục Sinh trên một ngọn núi (28,16).
- biến đổi hình dạng (metemorphôthê, 2): Sự cố biến đổi hình dạng (= sự hóa thân) này
là điều rất quen thuộc đối với ngoại giáo. Có lẽ vì thế mà Lc đã tránh dùng
từ ngữ này.
-
Môsê và Êlia (3): Đây là hai nhà linh thị trứ
danh của Cựu Ước, cả hai đều có liên hệ với núi Sinai-Khôrép. Môsê thường được
coi là đại diện cho Lề Luật và Êlia đại diện cho các Ngôn Sứ; nhưng có thể coi
cả hai vị vừa là những nhà lập pháp vừa là những ngôn sứ. Và nói chung, các
ngài đại diện cho thiên giới.
-
ba cái lều (4): Hẳn chi tiết này nhắc dến hoàn cảnh
thực là Lễ Lều (sukkốt: Lv
23,42; Nkm 8,14-18).
-
đám mây sáng ngời bao phủ các ông (5): Đám mây là
dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa. Động từ episkiazein, “bao phủ; rợp
bóng” là động từ cổ điển để lưu ý về sự hiện diện (Hp shekinah) của Đức
Chúa (Yhwh) trong đời sống và
trong các tình huống của dân Ngài (x. Xh
40,34-35; 1 V 8,10-12; Ed 10,3-4; Tv 18,12).
-
tiếng từ đám mây phán (5): Trong Cựu Ước,
“tiếng nói” thường xuất hiện trong các bài tường thuật về ơn gọi, chẳng hạn: St 12,1-3; 15,1; Xh 3,4; 19,16-24; 1 Sm 3,4;
Is 6,8; Gr 1,11 ….
-
Đây là Con yêu dấu của Ta (5): Câu này là một
tổng hợp Tv 2,7; Is 42 và có lẽ
cả St 22,2. Từ ngữ “con” trước tiên
diễn tả quan hệ gia đình, rồi cũng có sắc thái thân tình, kết hợp và hiệp
thông.
-
Nghe vậy, các môn đệ rất đỗi sợ hãi
(6): Mt cho thấy là nỗi sợ hãi của họ là do nghe lệnh Thiên Chúa truyền,
chứ không phải do thấy thị kiến (Mc).
-
Đức Giêsu lại gần (7): Động từ proserchomai,
“đi đến, đến gần”, là một động từ Mt thích dùng (52 lần; 5 lần trong Mc
và 10 lần trong Lc), nhưng chỉ có hai lần được áp dụng cho Đức Giêsu (ở 17,6-7
và 28,18 riêng của Mt). Trong cả hai bản văn, Đức Giêsu đến gần các môn
đệ với mục tiêu là trợ giúp những kẻ đang sợ hãi hoặc hoài nghi:
Mt 17,6-7 |
Mt 28,16-20 |
6 Khi các môn đệ nghe vậy họ ngã sấp mặt xuống
đất và hết sức kinh hoàng 7 Bấy giờ Đức Giêsu lại
gần chạm vào các ông và
bảo: “Trỗi dậy đi, đừng sợ” |
16 Mười một môn đệ… 17 Khi thấy Người, các ông bái lạy Người
, nhưng có mấy ông hoài
nghi. 18 Đức Giêsu đến gần nói với các ông: 19 “…toàn quyền…” 20 Thầy ở cùng anh em mọi
ngày” |
- thị kiến (9): Hoạt cảnh này vừa là “thị kiến” ([h]orama do động từ [h]oraô) kiểu khải huyền vừa là một cuộc thần hiển (có thể
so sánh với các bản văn khải huyền: Đn
10,1-10 [Kh 1,13-15]; 12,4.9 và các
yếu tố thần hiển trong: Xh 19,16;
24,15-16; 40,34-35). Từ ngữ mang tính khải huyền này hàm ý là nhìn thấy Đức
Giêsu hiển vinh là một “thị kiến” được Thiên Chúa ban cho.
4.- Ý nghĩa của bản văn
Bản văn chúng ta đọc hôm nay có phần
khó hiểu. Nếu tác giả muốn kể cho chúng ta biêt về một biến cố đặc biệt xảy ra
trong cuộc đời Đức Giêsu, thì hẳn là mọi sự sẽ đơn giản và rõ ràng; nhưng tác
giả lại đi xa hơn việc cung cấp thông tin. Ngài muốn nói cho chúng ta biết Đức
Giêsu là ai, và ngài đã dùng một ngôn ngữ đầy hình ảnh và biểu tượng dễ hiểu và
rõ ràng cho người thời đại ngài, nhưng lại khó cho chúng ta hôm nay.
* Mở (1)
Chi tiết xác định thời gian
“sáu ngày sau” muốn nói là sau chuyện gì? Tại sao tác giả lại ghi nhớ một chi
tiết không đáng kể như vậy? Và làm sao ngài có thể còn nhớ được chi tiết này 50
năm sau, khi bắt đầu viết?
Tại sao Đức Giêsu chỉ đưa
ba môn đệ đi với Người? Tại sao Người lên một ngọn núi?
Chi tiết “sáu ngày sau” hẳn là muốn đưa độc
giả về với Xh 24,16, trong đó kể rằng
“sau sáu ngày”, mây bao phủ quả núi và đến ngày thứ bảy, Thiên Chúa gọi Môsê. Tác
giả hướng độc giả chú ý vào một kinh nghiệm siêu nhiên. Nơi ấy hẳn là
vắng vẻ, bởi vì Đức Giêsu đưa các môn đệ “đi riêng với mình, lên một ngọn núi
cao”, bởi vì theo một cái khung quen thuộc theo linh đạo Kinh Thánh, người
ta không thể có kinh nghiệm về Thiên Chúa (Đức Kitô) trong sự hỗn độn và ồn ào
náo nhiệt. Đức Giêsu chính là vị hướng dẫn đoàn dân mới, được đại diện bởi ba
môn đệ.
* Thị kiến (2-8)
Sau phần mở, tác giả giới
thiệu Đức Giêsu vinh quang, bằng cách vận dụng các yếu tố quen thuộc của những
thị kiến khải huyền (ánh sáng mặt trời, y phục trắng tinh). Sau này, khi mô tả
trang phục của vị sứ thần báo tin Phục Sinh, tác giả Mt cũng cho thấy các yếu tố này (Mt 28,3-4). Họi Thánh gọi cuộc Phục Sinh là một sự “biến hóa;
biến thái” (metamorphein) để cho thấy sự thay đổi xảy ra nơi nhân tính
Đức Giêsu. Từ ngữ này dị nghĩa vì có thể làm chúng ta nghĩ đến sự hóa trang của
các thần linh Hy Lạp, cho dù đây là một dữ kiện không được các Kitô hữu
Siri và Paléttina biết đến. Từ ngữ này cũng hời hợt nữa, vì không phác họa được
tất cả mầu nhiệm Phục Sinh mà các tác giả Tin
Mừng còn gọi là “sự tái sinh”, “sự công chính hóa”. Ánh sáng, màu sắc, sự
“biến hóa” nơi bản thân Đức Giêsu, tất cả cho thấy rằng Người là một nhân
vật thuộc thế giới khác, là “Con Người” mặc lấy uy quyền và vinh quang (x. Đn 7,13-14). Đây là một thị kiến về Đức
Kitô trong vinh quang tương lai của Đấng Phục Sinh.
Đức Kitô biến đổi hình dạng
(và phục sinh) là đích điểm của Lề Luật và các Ngôn Sứ (x. 5,17). Sự xuất hiện
của Môsê và Êlia (ngược lại với Mc 9,4)
cho thấy các niềm chờ mong của dân
Phản ứng của Phêrô khi đề
nghị dựng ba cái lều lại nêu bật một lần nữa sự tương phản giữa các khát
vọng của loài người và kế hoạch của Thiên Chúa. Mới trước đây ít lâu, ông đã
lấy lòng thành mà ngăn cản Đức Giêsu đi lên Giêrusalem, và đã bị Đức Giêsu mắng
là “Satan”. Nay khi đề nghị dựng ba lều,
ông đã hiểu sai ý nghĩa của quang cảnh nên đã tìm cách hưởng lấy chiến thắng
vinh quang mình không đáng hưởng. Cả ở đây cũng vậy, Phêrô là đại diện cho
“thịt và máu” (16,17), tức người không suy nghĩ theo Thiên Chúa, nhưng theo cách
của loài người (16,23), nên lại ngáng trở thay vì cộng tác với Thiên Chúa. Lần
này, không phải là Đức Giêsu mắng Phêrô là “người kém tin” (14,31) hoặc là liên
minh Satan (16,23), nhưng chính Chúa Cha
can thiệp để điều chỉnh các ước vọng và quan niệm của ông. Đám mây sáng ngời
bao phủ cả các tông đồ. Như thế, các ông đã được tiếp xúc với chính vinh quang
huy hoàng của Thiên Chúa, để được đón nhận một sứ điệp trực tiếp từ
Thiên Chúa. Khi Chúa Cha giới thiệu Con của Ngài, lời lẽ của Ngài không còn dè
giữ, không giới hạn nữa (x. 11,25-27). Lời giới thiệu Đức Kitô (Phục Sinh) là
một tổng hợp giữa các “bản văn thiên sai” (Tv 2,7 và Is 42,1). Cũng như
tại phép rửa, “tiếng nói” từ trời làm sáng tỏ và xác nhận cả sứ mạng lẫn ơn gọi
của Đức Giêsu. Phêrô đã muốn xóa đi một phần chương trình thiên sai; Chúa
Cha đến nhắc rằng chương trình này không phải là một công trình của loài
người, nhưng là một kế hoạch của Ngài. Chính Ngài đã phác ra cho Đức
Giêsu con đường phải theo (người tôi tớ đau khổ chứ không phải là một vị
vua thuộc dòng dõi Đavít).
Tác
giả hoàn tất khung cảnh với những yếu tố thuộc quy ước: ngã xuống đất, sợ hãi,
im lặng. Đây là những mẹo văn chương mà các tác giả văn chương khải huyền
thường dùng để diễn tả một kinh nghiệm siêu phàm đang xảy ra. Đức Giêsu
can thiệp như vai trò thiên thần trấn an. Các lời “Đừng sợ” thường được nói lên
trong các thị kiến tương tự (x. Đn
8,16-17; 10,9-12.16-19; Kh 1,17; Lc 1,12-13.29-30).
Câu
cuối của hoạt cảnh có một tầm mức biện giáo và Kitô học. Sau khi “hóa
thân”, Đức Giêsu trở lại với tình trạng bình thường. Từ nay, “chỉ còn một mình
Đức Giê-su mà thôi”, bởi vì Người là phát ngôn nhân duy nhất của Thiên Chúa, mà
loài người phải quy chiếu về và quy phục. Lời nhắc này được gửi đến mọi người,
nhưng đặc biệt được gửi đến những người còn tin vào Môsê và chờ đợi Êlia trở
lại (x. 17,10).
* Kết (9)
Từ trên núi xuống, lời nhắc
“giữ bí mật” xác nhận rằng bản văn này song song với các mạc khải kiểu khải
huyền (x. Đn 12,9) và gợi lại các
tình huống phức tạp (chính trị–ái quốc) mà các lời loan báo về Đấng Mêsia đã và
sẽ gặp. Lời xác định “cho đến khi Con Người từ cõi chết trỗi dậy” cho thấy con
đường đúng để hiểu được ý nghĩa bài tường thuật này. Thực tại của Đức Giêsu chỉ
sẽ nên sáng tỏ và ta chỉ sẽ hiểu được dưới ánh sáng của cuộc Phục Sinh của
Người.
+ Kết luận
Cuộc
Hiển Dung là cuộc tôn vinh được sống trước của Đức Giêsu. Người đã xuất hiện
trong tất cả những phẩm tính của Người: Con Người, tôi trung của Đức Chúa,
Mêsia, Con Thiên Chúa, và với tất cả các liên hệ của Người trong lịch sử cứu
độ. Cuộc Hiển Dung vừa tăng cường uy tín cho sứ mạng của Đức Giêsu vừa củng cố
quyền bính của các tông đồ. Nếu quyền hành của Phêrô (16,18) và của Nhóm Mười
Hai (18,18) lên tới trời là bởi vì ở dưới thế này, Đức Kitô đã đăng quang, nhằm
xác nhận các quyết định của các ông.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Muốn có một kinh nghiệm nào đó về
Thiên Chúa, muốn gặp gỡ Ngài, nhất thiết chúng ta phải ra khỏi đời sống thường
ngày xô bồ náo nhiệt và được chính Ngài dẫn dắt. Người ta vẫn nói rằng có thể
và phải gặp Thiên Chúa giữa lòng cuộc sống này. Điều này không sai, và còn cần
thiết cho chúng ta là những người thường xuyên sống và dấn thân giữa lòng xã
hội với những vấn đề và biết bao cuộc gặp gỡ với người khác. Nhưng để có thể
gặp Chúa trong cuộc đời và cộng tác với Ngài, chúng ta đã phải thường xuyên gặp
Ngài trong nơi cô tịch, trong thinh lặng, riêng tư: chúng ta đã thường xuyên
được Ngài bao phủ “trong đám mây sáng chói”.
2. Phêrô đã thưa với Đức Giêsu: “Lạy Ngài (=
Chúa)”, nhưng rất có thể theo nghĩa là đế vương, vị thống lãnh, hơn là Mêsia
vinh quang. Đức Kitô mà Chúa Cha (và hôm nay, Họi Thánh) giới thiệu là chúa tể,
nhưng đặc biệt là ngôn sứ, là nhà lập pháp được ủy nhiệm của thời đại mới, Đấng
mà loài người phải lắng nghe, nghĩa là vâng phục. Quan niệm của Phêrô không do
Thiên Chúa hướng dẫn, nên sai lạc; các đề nghị của Chúa Cha, trong đó có hàm
chứa cả những lời loan báo về số phận cuối cùng, trần thế và thiên quốc, của
Đức Kitô, mới là những đề nghị đúng đắn mà loài người phải đón nhận.
3. Tất cả những gì
4. Sự biến hình Thánh Thể của Chúa Giêsu đối
với Người hệ tại không phải là tỏ vinh quang của Người ra bên ngoài, nhưng là
che giấu vinh quang ấy đi dưới những hình bí tích. Tuy nhiên, vì đã trung thành
lắng nghe lời của Con yêu dấu để được Người dạy dỗ về mầu nhiệm này, chúng ta
nhạn ra Người đang hiện diện dưới dạng bánh thánh và Phêrô có thể kêu lên: “Lạy
Chúa, ở đây thật là hay!”. Sau đó, cần có can đảm mà phụng sự Người trong nếp
sống khiêm tốn mỗi ngày.
5. Hội Thánh đang dấn thân thi hành sứ mạng Đức
Giêsu đã giao phó cho Nhóm Mười Một trên núi (x. Mt 28,16-20). Để có thể tiếp tục chu toàn sứ mạng, Hội Thánh luôn
nhớ bài học Đức Giêsu để lại trên núi kia, khi Người từ chối các gợi ý của
Satan, cũng như lời giới thiệu của Chúa Cha trên núi nọ, khi Người giới thiệu
Đức Giêsu là Con yêu dấu của Người, là điển hình cho chúng ta, là Đấng sẽ ban
cho chúng ta những giáo huấn giúp chúng ta trở thành gia đình đích thực của
Thiên Chúa.
Lm FX Vũ
Phan Long, ofm