Chúa NHẬT 3 MÙA CHAY A
Xh 17,3-7 ; Rm 5,1-2.5-8 ; Ga 4,5-42
ĐÓN NHẬN ĐỨC GIÊ-SU LÀ NƯỚC HẰNG SỐNG
ĐỂ ĐƯỢC CỨU ĐỘ
I. HỌC LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG: Ga 4,5-42
(5) Vậy Người đến một
thành xứ Sa-ma-ri, tên là Xy-kha, gần thửa đất ông Gia-cóp đã cho con
là ông Giu-se. (6) Ở đấy, có giếng của ông Gia-cóp. Người đi đường
mỏi mệt, nên ngồi ngay xuống bờ giếng. Lúc đó vào khoảng mười hai
giờ trưa. (7) Có một người phụ nữ Sa-ma-ri đến lấy nước. Đức Giê-su
nói với người ấy: “Chị cho tôi xin chút nước uống !”. (8) Quả thế,
các môn đệ của Người đã vào thành mua thức ăn. (9) Người phụ nữ
Sa-ma-ri liền nói: “Ông là người Do thái, mà lại xin tôi, một phụ nữ
Sa-ma-ri, cho ông nước uống sao ?” Quả thế, người Do thái không được
giao thiệp với người Sa-ma-ri. (10) Đức Giê-su trả lời: “Nếu chị nhận
ra ân huệ Thiên Chúa ban, và ai là người nói với chị: Cho tôi chút
nước uống, thì hẳn chị đã xin, và người ấy ban cho chị Nước Hằng
Sống”. (11) Chị ấy nói: “Thưa ông, ông không có gầu, mà giếng lại sâu.
Vậy ông lấy đâu ra Nước Hằng Sống ? (12) Chẳng lẽ ông lớn hơn tổ phụ
Gia-cóp chúng tôi, là người đã cho chúng tôi giếng này ? Chính Người
đã uống nước giếng này, cả con cháu và đàn gia súc của Người cũng
vậy”. (13) Đức Giê-su trả lời: “Ai uống nước này, sẽ lại khát. (14) Còn
ai uống nước tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa. Và nước tôi cho sẽ
trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời
đời”. (15) Người phụ nữ nói với Đức Giê-su: “Thưa ông, xin ông cho tôi
thứ nước ấy, để tôi hết khát và khỏi phải đến đây lấy nước”. (16)
Người bảo chị ấy: “Chị hãy gọi chồng chị, rồi trở lại đây”. (17) Người
phụ nữ đáp: “Tôi không có chồng”. Đức Giê-su bảo: “Chị nói: Tôi không
có chồng là phải, (18) vì chị đã năm đời chồng rồi, và hiện người
đang sống với chị không phải là chồng chị. Chị đã nói đúng”. (19) Người
phụ nữ nói với Người: “Thưa ông, tôi thấy ông thật là một ngôn sứ… (20)
Cha ông chúng tôi đã phờ phượng Thiên Chúa trên núi này. Còn các ông
lại bảo: Giê-ru-sa-lem mới chính là nơi phải thờ phượng Thiên Chúa”. (21)
Đức Giê-su phán: “Này chị, hãy tin tôi: đã đến giờ các người sẽ thờ
phượng Chúa Cha, không phải trên núi này hay tại Giê-ru-sa-lem. (22) Các
người thờ Đấng các người không biết; còn chúng tôi thờ Đấng chúng
tôi biết, vì ơn cứu độ phát xuất từ dân Do thái. (23) Nhưng giờ đã
đến và chính là lúc này đây, giờ những người thờ phượng đích thực
sẽ thờ phượng Chúa Cha trong Thần Khí và Sự Thật, vì Chúa Cha tìm
kiếm những ai thờ phượng Người như thế. (24) Thiên Chúa là Thần Khí,
và những kẻ thờ phượng Người phải thờ phượng trong Thần Khí và Sự
Thật”. (25) Người phụ nữ thưa: “Tôi biết Đấng Mê-si-a, gọi là Đức
Ki-tô sẽ đến. Khi Người đến, người sẽ loan báo cho chúng tôi mọi sự”.
(26) Đức Giê-su nói: “Đấng ấy chính là tôi, người đang nói với chị
đây”. (27) Vừa lúc đó, các môn đệ trở về. Các ông ngạc nhiên vì thấy
Người nói chuyện với một phụ nữ. Tuy thế, không ai dám hỏi: “Thầy
cần gì vậy ?” Hoặc “Thầy nói gì với chị ấy ?”.(28) Người phụ nữ
để vò nước lại, vào thành và nói với người ta: (29) “Đến mà xem:
có một người đã nói với tôi về tất cả những gì tôi đã làm. Ông ấy
không phải là Đấng Ki-tô sao ?” (30) Họ ra khỏi thành và đến gặp
Người. (31) Trong khi đó, các môn đệ thưa với Người rằng: “Ráp-bi, xin
mời Thầy dùng bữa”. (32) Người nói với các ông: “Thầy phải dùng một
thứ lương thực mà anh em không biết”. (33) Các môn đệ hỏi nhau: “Đã có
ai mang thức ăn cho Thầy rồi chăng ?”. (34) Đức Giê-su nói với các ông:
“Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy, và
hoàn tất công trình của Người”. (35) Nào anh em chẳng nói: Còn bốn
tháng nữa mới đến mùa gặt ? Nhưng này, Thầy bảo anh em: Ngước mắt
lên mà xem: đồng lúa đã chín vàng đang chờ ngày gặt hái !”.(36) Ai
gặt thì lãnh tiền công và thu hoa lợi để được sống muôn đời. Và như
thế, cả người gieo lẫn kẻ gặt đều hớn hở vui mừng. (37) Thật vậy,
câu tục ngữ “Kẻ này gieo, người kia gặt” quả là đúng ! (38) Thầy sai
anh em đi gặt những gì chính anh em đã không vất vả làm ra. Người
khác đã làm lụng vất vả. Còn anh em, anh em được vào hưởng kết quả
công lao của họ”. (39) Có nhiều người Sa-ma-ri trong thành đó đã tin
vào Đức Giê-su, vì lời người phụ nữ làm chứng: "Ông ấy nói với
tôi mọi việc tôi đã làm". (40) Vậy, khi đến gặp Người, dân
Sa-ma-ri xin người ở lại với họ, và Người đã ở lại đó hai ngày. (41)
Số người tin vì lời Đức Giê-su nói còn đông hơn nữa. (42) Họ bảo
người phụ nữ: “Không còn phải vì lời chị kể mà chúng tôi tin. Quả
thật, chính chúng tôi đã nghe và biết rằng: Người thật là Đấng Cứu
Độ trần gian”.
2. Ý CHÍNH:
Bài Tin Mừng hôm nay thuật lại cuộc đối thoại của Đức Giê-su
với một phụ nữ dân Sa-ma-ri. Người đã từng bước đưa chị ta đón nhận
mặc khải quan trọng: Người chính là Đấng Thiên Sai, là Đấng đến ban Nước
Hằng Sống là ơn cứu độ cho những ai biết mở lòng đón nhận và đặt trọn niềm tin
cậy vào Người.
3. CHÚ THÍCH:
- C 5-9: + Đến một thành xứ Sa-ma-ri: Từ Giê-ru-sa-lem về Ga-li-lê ngang
qua xứ Sa-ma-ri, Đức Giê-su đã tới giếng Gia-cóp gần thành Sy-kha (hay
Si-khem) tại đất Ca-na-an (x. St 33,18; 48,22). Đây là đất mà tổ phụ
Gia-cóp đã cho Giu-se và con cháu làm gia nghiệp (x. Gs 24,32). +
Khoảng giờ thứ sáu: Tức khoảng mười hai giờ trưa. Người Do
thái tính thời gian như sau: ban ngày có 12 giờ và ban đêm có 4 canh
giờ. Ngày bắt đầu từ giờ Thứ Nhất (6g sáng) lúc mặt trời mọc, và
kết thúc vào giờ Thứ Mười Hai (18g00) lúc mặt trời lặn. +
“Chị cho tôi xin chút nước uống !”: Đức Giê-su chủ động xin
nước uống để có cơ hội bắt chuyện, giúp người phụ nữ dần dần nhận
ra Người là Đấng ban Nước Hằng Sống, đem lại ơn cứu độ cho loài
người. + “Ông là người Do thái, mà lại xin tôi, một phụ nữ Sa-ma-ri, cho
ông nước uống sao ?”: Người Sa-ma-ri là con cháu của hai nhóm người:
Một là những người không phải đi lưu đày khi Vương quốc Ít-ra-en phía
Bắc bị tiêu diệt vào năm 722 trước CN. Hai là những người dân Ba-by-lon và
Mê-đi-a do các đoàn quân xâm lược Át-sua đưa vào (x. 2 V 17,24tt).
Có một sự đối lập về thần học giữa những người Sa-ma-ri này với người Do Thái
phía Nam, bởi vì người Sa-ma-ri không chịu thờ phượng Thiên Chúa tại Đền Thờ Giê-ru-sa-lem.
Tình trạng này lại trầm trọng thêm vì người Sa-ma-ri đã gây thêm khó khăn cho
người Do Thái hồi hương trong việc tái thiết Đền Thờ Giê-ru-sa-lem, rồi đến thế
kỷ II trước CN, người
Sa-ma-ri lại giúp các vua Sy-ri trong các cuộc chiến chống người Do Thái. Vào
năm 128 trước CN, thượng tế Do Thái đã ra lệnh đốt phá Đền Thờ Sa-ma-ri trên
núi Ga-ri-dim. Đối với người Do Thái, dân Sa-ma-ri là dân tội lỗi ô uế. Do đó
hai dòng giống Do thái và Sa-ma-ri tuy cùng một tổ tiên, sống sát bên
nhau, nhưng lại có ác cảm và không giao tiếp với nhau. Ở đây, người
phụ nữ Sa-ma-ri này đã nhận ra Đức Giê-su là người Do thái qua giọng
nói và cách ăn mặc nên đã tỏ ra ngạc nhiên và từ chối giúp đỡ như
vậy.
- C 10-15: + “Nếu chị nhận ra ân huệ Thiên Chúa ban, và ai là người nói
với chị: Cho tôi chút nước uống, thì hẳn chị
đã xin, và người ấy ban cho chị Nước Hằng Sống”…: Nhân dịp
này, Đức Giê-su cho người phụ nữ kia biết Người là Đấng Cứu Thế, đến để
ban Nước Hằng Sống. Trong Tin Mừng Gio-an, chúng ta thường gặp tình trạng các người đối thoại với
Đức Giê-su hiểu lầm những kiểu nói của Người. Như ở đây, hai kiểu nói là “nước
hằng sống” của Đức Giê-su và của người phụ nữ nói không mang cùng một ý nghĩa. + “Thưa ông, ông không có gầu, mà giếng lại sâu. Vậy ông lấy
đâu ra Nước Hằng Sống ?...: Người phụ nữ
này chỉ hiểu lời Đức Giê-su theo nghĩa thông thường là “nước giếng”
tự nhiên, đang khi Đức Giê-su lại có ý nói đến Nước Hằng Sống là Ơn
Cứu Độ. + “Ai uống nước này, sẽ lại khát. Còn ai uống nước tôi cho,
sẽ không bao giờ khát nữa. Và nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy
một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời”: Đức Giê-su
so sánh nước giếng tự nhiên chỉ làm đã khát cho thân xác nhất thời,
với Nước Hằng Sống là ơn cứu độ mới là nguồn nước mang lại sự sống đời
đời cho loài người mà chính Người mang đến. + “Thưa ông, xin
ông cho tôi thứ nước ấy, để tôi hết khát và khỏi phải đến đây lấy
nước”: Đức Giê-su dẫn dắt người phụ nữ
từ thái độ thù nghịch đến chỗ thân thiện với Người. Đức Giê-su từ vai trò
một người khách bộ hành xin nước uống đến vai trò là Đấng Thiên Sai ban
Nước Hằng Sống và người phụ nữ xin Người ban cho thứ Nước cứu độ ấy.
- C 16-22: + “Chị hãy gọi chồng chị, rồi trở lại đây”: Đức Giê-su tỏ ra là người lịch sự khi Người muốn nói
chuyện với người phụ nữ trước mặt người chồng của chị ta, đồng thời cũng
muốn cho chị ta ý thức về thân phận tội nhân của mình. +
“Chị nói: Tôi không có chồng là phải, vì chị đã năm đời chồng rồi,
và hiện người đang sống với chị không phải là chồng chị. Chị đã nói
đúng”: Đức Giê-su cho người phụ nữ ý thức tình trạng hôn nhân
bất hợp pháp của mình. Một số nhà chú giải còn nhìn thấy 5 đời
chồng là hình ảnh tượng trưng dân Sa-ma-ri vừa kính sợ Đức Chúa, lại
vừa phụng thờ 5 vị thần khác (x. 2 V 17,29-34.41). + Thưa ông, tôi thấy ông thật
là một ngôn sứ: Người phụ nữ sửng sốt trước việc Đức Giê-su
thấu suốt đời tư của mình, và tôn xưng Người là một vị ngôn sứ. Đồng
thời, chị ta xin Đức Giê-su cho chị lời khuyên cần tôn thờ Thiên Chúa trên
núi Ga-ra-dim như người Sa-ma-ri (x. Đnl 27,4) hay thờ Chúa tại Đền Thánh Giê-ru-sa-lem như người Do Thái ?
+
Đã đến giờ: Đức Giê-su dạy chị phụ nữ với tư cách vị ngôn sứ:
Đã đền giờ Người xuất hiện để thực hiện chương trình cứu độ. Người
cho biết: việc thờ phượng tại núi này hay tại Giê-ru-sa-lem chỉ là
hình bóng và đã bị vượt qua rồi. Bây giờ là thời của Đấng Thiên Sai, nên
cần chầm dứt việc thờ phượng cũ để bắt đầu cách thờ phượng mới nơi
Người. + Thờ Đấng mà các người không biết: Người Sa-ma-ri chỉ
công nhận bộ sách Ngũ Kinh và không biết đến các sách khác, nhất là
sách của các ngôn sứ mặc khải về Thiên Chúa. + Còn chúng tôi thờ Đấng
chúng tôi biết: Người Do thái tuân giữ toàn bộ Sách Thánh. Sau
này, thánh Phao-lô cũng nhấn mạnh đặc ân này của dân Do thái (x. Rm
9,4).
- C 23-29: + Thờ phượng Chúa Cha trong Thần Khí: là tôn thờ Thiên Chúa dưới sự soi sáng và sức mạnh của
Chúa Thánh Thần. + Trong Sự Thật: Thờ Thiên Chúa trong Đức Giê-su, Đấng
là “đường, sự thật và sự sống” (Ga 14,6). Tóm lại, từ nay Đức Giê-su
trở nên Đền Thờ mới sẽ thay Đền Thờ cũ trên núi Ga-ra-dim hay tại thủ
đô Giê-ru-sa-lem. + Thiên Chúa là Thần Khí, và những kẻ thờ phượng Người phải
thờ phượng trong Thần Khí và Sự Thật”: Đức Giê-su đã nêu ra
một điều được cả dân Do thái và dân Sa-ma-ri chấp nhận là lời khẳng
định: “Thiên Chúa là Thần Khí, và người ta phải thờ Người ở khắp
mọi nơi, thờ chính Thiên Chúa chứ không phải thờ hình bóng của
Người. Thiên Chúa là Đấng vô hình, nên Người đòi người ta phải thờ
phượng Người trong tâm hồn. Một số người dựa vào câu này để từ chối
thờ Chúa bằng những hình thức lễ nghi bên ngoài. Thực ra Đức Giê-su
vẫn thường xuyên lên Đền thờ dự lễ (x. Ga 2,13; 7,14; 11,55) và đến hội
đường Do thái nghe giảng dạy và cầu nguyện chung tôn thờ Thiên Chúa (x. Mt
1,21; Mt 13,54). Qua câu nói này, Người chỉ chống lại những nghi lễ vụ
hình thức mà thôi (x. Mt 15,7-9; 21,12-13). + Đấng Mê-si-a, gọi là Đức
Ki-tô sẽ đến: Dù chưa hiểu được ý nghĩa về lời giải thích
trên đây, người phụ nữ này cũng quan tâm đến tôn giáo. Bà hy vọng Đấng Thiên
Sai sẽ đến loan báo mọi sự. + Đấng ấy chính là tôi: Đây là công thức bằng
tiếng Hy Lạp “egô eimi” (I am; Je suis). Công thức này là chính danh xưng Thiên Chúa đã tỏ ra cho
Mô-sê. Tác giả muốn ngầm giới thiệu thần tính của Đức Giê-su. Bình thường, Người không muốn tỏ ra là Đấng Thiên Sai vì sợ
dân Do thái hiểu vai trò Thiên Sai theo nghĩa chính trị. Còn ở đây nói
với người phụ nữ Sa-ma-ri, Người không sợ bị hiểu lầm nên đã tỏ
mình chính là Đấng Thiên Sai. + Các ông ngạc nhiên vì thấy Người nói
chuyện với một phụ nữ: Phong tục Do thái không cho phép đàn
ông nói chuyện với phụ nữ nơi công cộng. Làm như vậy, Đức Giê-su đã
bãi bỏ tục lệ này vì sứ mệnh rao giảng Tin Mừng quan trọng hơn thói
tục của người đời. Người đến với tha nhân, bất kể họ là ai hay
thuộc phái tính nào, dân tộc nào, để đem Tin Mừng cứu rỗi cho họ. +
Đến mà xem: có một người đã nói với tôi về tất cả những gì tôi đã
làm: Thực ra Đức Giê-su mới chỉ nói về những người chồng của
người phụ nữ này chứ chưa nói về tất cả những gì chị đã làm.
Nhưng khi nói với dân chúng, chị ta đã phóng đại lên để cho người ta
dễ tin mà thôi.
- C 30-38: + “Thầy phải dùng một thứ lương thực mà anh em không biết”: Đức Giê-su muốn dựa vào của ăn phần xác mà các môn đệ
mời Người để nói về của ăn thiêng liêng mà các ông chưa biết. + Lương
thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy: Đức Giê-su
coi việc làm theo ý Chúa Cha là đồ ăn của Người. + Đồng lúa đã chín vàng đang
chờ ngày gặt hái !: Đức Giê-su dựa vào câu tục ngữ người nông
dân thường nói: “Bốn tháng có qua, mùa gặt có tới”. Qua đó Người nói
đến mùa gặt thiêng thiêng là cánh đồng truyền giáo đã chín vàng, chính
là dân thành Sa-ma-ri đang kéo tới gặp Người. Đây là hoa trái đầu mùa
của mùa gặt Thiên Sai. Trong Cựu Ước, mùa gặt tượng trưng sự phán
xét của Thiên Chúa, hoặc niềm vui ơn cứu độ (x. Is 9,2; Am 9,13, Tv
126,5). Trong Tân Ước, mùa gặt tượng trưng cho hoa quả của việc truyền
giáo (x. Mt 9,37). Đức Giê-su gợi lên niềm vui và phần thưởng của thợ
gặt là các tông đồ, khi các ông giúp nhiều người tin để được hưởng
hạnh phúc Nước Trời. + Câu tục ngữ “Kẻ này gieo, người kia
gặt” quả là đúng !: Câu tục ngữ này được hiểu như sau: Người
gieo chính là Đức Giê-su và hạt giống là Tin Mừng (x. Lc 8,11). Thợ
gặt là các môn đệ. Mặc dù các ông chưa được sai đi, nhưng Đức Giê-su
đã thấy trước viễn ảnh tốt đẹp là hoa quả của việc truyền giáo
mang lại. Đức Giê-su muốn nói lên rằng: công khó của Người sắp chịu
chết trên thập giá như là hạt giống, hạt giống ấy phải chết đi mới
sinh ra nhiều hoa trái (x. Ga 12,24). Còn các môn đệ sẽ cảm mến được
niềm vui của mùa gặt. Công việc truyền giáo là một việc mang tính tập
thể: “Người gieo kẻ gặt”, mỗi người mỗi nhiệm vụ. Do đó khi việc
tông đồ đem lại nhiều kết quả thì người ta đừng tự mãn cho rằng kết
quả đó hòan tòan do công sức riêng của mình, nhưng còn có công sức của nhiều
người khác cộng tác nữa.
- C 39-42: + Ông ấy nói với tôi mọi việc tôi đã làm: Lời chứng của người phụ nữ được coi là dấu chỉ, là bước
khởi đầu đưa dân thành tin vào Đức Giê-su. + Dân Sa-ma-ri xin Người ở lại
với họ, và Người đã ở lại đó hai ngày. Số người tin vì lời Đức Giê-su
nói còn đông hơn nữa: Đức tin phải được tiếp tục triển nở
nhờ nghe lời giảng dạy của Đức Giê-su. + “Không còn phải vì lời chị
kể mà chúng tôi tin. Quả thật, chính chúng tôi đã nghe và biết rằng:
Người thật là Đấng Cứu Độ trần gian”: Qua lời của dân thành
Sa-ma-ri, ta thấy đức tin trưởng thành phải bắt nguồn từ thực tế, chứ
không chỉ dựa vào đức tin của người khác như cha mẹ, vợ chồng, người
thân hoặc theo số đông nơi mình đang sống mà thôi.
4. CÂU HỎI: 1) Cách tính
giờ của người Do thái thế nào ? 2) Đức Giê-su chủ động xin nước uống
với người phụ nữ Sa-ma-ri nhằm mục đích gì ? 3) Nước Hằng Sống mà
Đức Giê-su hứa ban là thứ nước gì ? 4) Lời Đức Giê-su dạy thờ Thiên
Chúa vô hình trong Thần Khí và Sự Thật phải chăng là Người đã bãi
bỏ tất cả các lễ nghi thờ phương bề ngoài ? 5) Câu chuyện người phụ
nữ Sa-ma-ri hôm nay dạy ta bài học gì về sứ mạng phải đi loan báo Tin
Mừng ? 6) Câu nói của dân làng cho thấy tầm quan trọng của Lời Chúa ra
sao trong viẹc tăng thêm đức tin của người tín hữu đến mức trưởng thành ?
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: “Ai uống nước
này, sẽ lại khát. Còn ai uống nước tôi cho, sẽ không bao giờ khát
nữa” (Ga 4,13-14a).
2. CÂU CHUYỆN:
1) LỜI CHÚA CHÍNH LÀ NGUỒN NƯỚC
HẰNG SỐNG:
Cách đây ít lâu, một số chị em người Bỉ khi suy niệm đoạn
Tin mừng này, đã cùng nhau lập một tu hội tên là “Ô Vi” (Eau Vive)
dịch là “Nước Hằng Sống”. Ngoài việc cầu nguyện trước Chúa Thánh
Thần mỗi ngày, chị em còn mở quán ăn phục vụ khách. Trong quán, các
chiêu đãi viên chính là các nữ tu. Châm ngôn của tu hội là “Phục vụ
Chúa trong các thực khách”. Mỗi buổi tối vào giờ đóng cửa, chị em
biến quán ăn trở thành nhà nguyện. Các thực khách được mời ở lại
tham dự giờ chia sẻ Lời Chúa. Mọi người sẽ được nghe Lời Chúa trong
Thánh Kinh là Nước Hằng Sống mà Đức Giê-su đã ban cho người phụ nữ
Sa-ma-ri bên bờ giếng Gia-cóp xưa.
2) PHẢI TÌM GẶP CHÚA NƠI THA NHÂN:
Vào một đêm trăng, khi nhìn qua cửa sổ, vị tu
sĩ già thấy một thiên thần đang ngồi viết vào một cuốn sách vàng. Lòng tràn
ngập hân hoan, vị tu sĩ liền rón rén đến gần hỏi thiên thần:
-
Ngài đang viết gì vào quyển sách vàng này thế ?
-
Ta đang ghi tên những người có lòng yêu mến Thiên Chúa thực sự.
Trong
tâm trạng vừa lo lắng lại vừa hồi hộp, vị tu sĩ đã yêu cầu thiên thần tìm trong
cuốn sách xem đã có tên mình hay chưa. Thiên thần liền chiều ý để lần giở từng
trang sách ra tìm, nhưng tìm từ đầu đến cuối cuốn sách vàng mà không thấy có tên
ông ta. Vị tu sĩ vẫn không thất vọng, ông tiếp tục yêu cầu thiên thần:
-
Vậy xin ngài hãy ghi tên tôi là kẻ luôn yêu mến phục vụ tha nhân.
Thiên
thần liền ghi tên ông vào sổ vàng những người yêu mến Chúa.
Sau
khi vị tu sĩ già qua đời, người ta đã tìm thấy quyển nhật ký hằng ngày của ông.
Trong đó ngay trên trang đầu tiên ông dã ghi Lời Chúa phán: ”Nếu ai nói : Tôi yêu mến Thiên Chúa, mà
lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối. Vì ai không yêu mến người anh em mà
họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy” (1
Ga 4,20). Tiếp theo lời Chúa này, vị tu sĩ còn giải thích thêm: ”Tôi đã đi tìm
linh hồn tôi, nhưng tôi không tìm thấy vì linh hồn có đặc tính thiêng liêng; Tiếp
đến tôi đã đi tìm Thiên Chúa, nhưng tôi cũng không tìm thấy vì Ngài vô cùng siêu
việt; Mãi đến khi tôi quyết định đi tìm tha nhân thì tôi lại gặp được cả Thiên Chúa và linh hồn mình nơi
những người này” (Trích «Mỗi ngày một tin vui»).
3. SUY NIỆM:
Mùa Chay là thời kỳ thuận tiện để giúp
chúng ta tìm gặp Đức Giê-su là nguồn nước đem lại sự sống đời đời. Qua
Tin Mừng hôm nay, Đức Giê-su đã đối thoại với người phụ nữ Sa-ma-ri bên bờ
giếng Gia-cóp. Người đã từng bước mặc khải Sự Thật về Người cho chị
ta: Người là Đấng ban Nước Hằng Sống, là một Ngôn Sứ, là Đấng Mê-si-a đến ban
ơn cứu độ mọi người.
1) HỌC TẬP ĐỨC GIÊ-SU TRONG VIỆC LOAN BÁO TIN MỪNG:
Đức Giê-su đã hướng dẫn người phụ nữ theo một tiến trình đức Tin
như sau:
- Người đi bước trước để ngỏ lời xin người phụ nữ Sa-ma-ri cho uống
nước giếng tự nhiên:
Đức Giê-su chủ động đi bước trước làm quen, vượt qua rào cản giữa
hai dân tộc Do thái và Sa-ma-ri để ngỏ lời xin một người phụ nữ Sa-ma-ri cho
uống nước như sau: “Chị cho tôi xin chút nước uống !” (Ga 4,7). Đây là phương pháp loan báo Tin Mừng hữu hiệu giúp các
tín hữu chúng ta tiếp cận anh em lương dân để nói chuyện về tôn giáo với họ.
- Người đòi người phụ nữ phải tin vào Người để được Người ban cho Nước
Hằng Sống là ơn cứu độ:
Từ việc xin nước uống tự nhiên, Đức Giê-su đề cập đến thứ Nước Hắng
Sống là đức tin siêu nhiên đem lại sự sống đời đời cho những ai đón nhận: “Nếu
chị nhận ra ân huệ Thiên Chúa ban, và ai là người nói với chị: Cho
tôi chút nước uống, thì hẳn chị đã xin, và người ấy sẽ ban cho chị
Nước Hằng Sống” (Ga 4,10). Phải biết bắt đầu từ những điều vật chất cụ thể
để sẽ đề cập đến mầu nhiêm đức tin siêu vật chất. Đức Giê-su cũng nhiều lần đã
dung các hình ảnh cụ thể vật chất đời thường trong các dụ ngôn để trình bày về
Nước Trời.
- Người đòi người ta phải thờ phượng Chúa Cha trong Thần Khí
và Sự Thật:
Đức Giê-su cho chị phụ nữ kia biết chính thái độ ich kỷ tự mãn và
khinh thường lẫn nhau đã tạo ra bức tường ngăn cách về đức tin giữa hai dân tộc
Do thái và Sa-ma-ri: Người Do thái đòi phải thờ Thiên Chúa tại Đền Thờ Giê-ru-sa-lem,
còn người Sa-ma-ri lại đòi phải thờ Thiên Chúa trên núi Ga-ri-dim! Đức Giê-su
đã giải đáp về sự thờ phượng đích thực như sau: “Thiên Chúa là Thần Khí,
và những kẻ thờ phượng Người phải thờ trong Thần Khí và Sự Thật”
(Ga 4,24). Cần tập cầu nguyện với Chúa mọi lúc và mọi nơi chứ không nhất thiết phải
có nhà thờ hay bàn thờ mới cầu nguyền được.
- Người mặc khải về sứ mạng Thiên Sai của Người:
Người phụ nữ Sa-ma-ri cho biết quan niệm về Đấng Thiên Sai của
người Sa-ma-ri như sau: “Tôi biết Đấng Mê-si-a, gọi là Đức Ki-tô sẽ đến.
Khi Người đến, người sẽ loan báo cho chúng tôi mọi sự”. Đức Giê-su liền
mặc khải cho chị ta biết về vai trò Thiên Sai của Người như sau: “Đấng ấy
chính là tôi, người đang nói với chị đây” (Ga 4,26). Tất cả sự thờ phượng Thiên Chúa đều qui vè Chúa Giê-su,
để nhờ Người mà tạ ơn Thiên Chúa Cha.
- Người phụ nữ thể hiện đức tin bằng việc nhiệt thành làm chứng cho
Người:
Sau khi đã tin Đức Giê-su là Ngôn Sứ và là Đấng Thiên Sai, người
phụ nữ đã phấn khởi vào trong thành báo tin như sau: “Đến mà xem: có một
người đã nói với tôi về tất cả những gì tôi đã làm. Ông ấy không
phải là Đấng Ki-tô sao ?” (Ga 4,29). Nhờ lòng tin yêu Chúa mà người phụ nữ
này đã nhiệt thành loan báo Tin Mừng cho đồng bào của mình. Thực như lời thánh
Phao-lô đã nói: “Tinh yêu Chúa Ki-tô thôi thúc tôi” (2 Cr 5,14).
- Nhờ gặp gỡ và nghe lời Chúa mà dân làng Sa-ma-ri đã đạt đến một đức
tin trưởng thành:
Lúc đầu dân làng Sa-ma-ri đã ra gặp Đức Giê-su theo lời người phụ nữ
kêu gọi. Rồi họ đã mời Đức Giê-su ở lại để được nghe loan báo Tin Mừng. Nhờ đó họ
đã có đức tin vào Đức Giê-su chính là “Đấng Cứu Độ trần gian”. Cuối cùng họ
đã khẳng định với người phụ nữ: “Không còn phải vì lời chị kể mà chúng
tôi tin. Quả thật, chính chúng tôi đã nghe và biết rằng: Người thật
là Đấng Cứu Độ trần gian” (Ga 4,42). Đây cũng là tấm gương cho những anh
chị em tân tòng theo đạo để lập gia đình với người bạn công giáo. Họ phải làm
thế nào để đạt tới đức tin trưởng thành như dân làng Sa-ma-ri nói trên.
2) PHẢI GẶP GỠ CHÚA LÀ ĐIỀU
KIỆN ĐỂ CÓ ĐỨC TIN TRƯỞNG THÀNH ?:
Ngày nay chúng ta có thể gặp
gỡ Chúa bằng nhiều hình thức như sau:
- Gặp Chúa trong tình yêu tha nhân: “Thiên Chúa là tình yêu” (1 Ga 4,8), nên chỉ những ai có tình yêu
thương tha nhân mới gặp được Thiên Chúa. Còn những kẻ ganh ghét, để lòng thù
ghét anh em thì thuộc về ma quỷ và sẽ không gặp được Thiên Chúa đời này và đời
sau như thánh Gio-an đã viết: “Phàm ai ghét anh em mình thì là kẻ sát nhân” (1
Ga 3,15).
- Gặp Chúa trong Thần Khí là Chúa Thánh Thần: Ðức Giê-su nói: Ðã đến giờ các người sẽ thờ phượng Chúa
Cha, không phải trên núi này hay tại Giê-ru-sa-lem. Những người thờ phượng đích
thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong
thần khí và sự thật” (Ga 4,23). Vì “Ðấng Tối Cao không ở trong những ngôi
nhà do tay người phàm làm ra” (Cv 7,48). Do đó muốn gặp gỡ Thiên Chúa
thực sự, ta cũng phải gặp Ngài trong Thần Khí là Chúa Thánh Thần.
- Gặp Chúa trong tín thác vào Chúa Giê-su “là Đường, là Sự Thật và là Sự
Sống” (Ga 14,6): Nhờ đức Tin, chúng ta sẽ gặp gỡ Chúa qua
Lời Chúa và Thánh Thể tại nhà thờ; Gặp Chúa khi đọc Lời Chúa giờ kinh tối gia
đình hằng ngày hay các buổi sinh hoạt Hiệp Sống Tin Mừng hằng tuần: “Vì ở đâu có hai ba người
họp lại nhân danh Thầy, thì có Thầy ở đất, giữa họ” (Mt 18,20)
- Gặp Chúa trong những người đang sống chung trong một mái
nhà hay đang ẩn mình nơi những người đau khổ, nghèo
khó, bệnh tật và bị bỏ rơi… Ngoài ra để gặp được Chúa, chúng ta cần phải ăn ở thành
thật “có nói có, không nói không” (Mt 5,36). Tránh ăn nói quanh co, lừa đảo, vì
đó là hành vi của ma quỷ là kẻ dối trá và hay đánh lừa con người (x. Ga 8,44).
3) LÀM GÌ ĐỂ SỐNG VÀ TRUYỀN BÁ ĐỨC TIN TRONG THẾ
GIỚI HÔM NAY ?:
- Trong những ngày Mùa Chay này, chúng ta cần dành nhiều
thời gian để đến gặp gỡ Chúa Giê-su trong thánh lễ, qua các
buổi tĩnh tâm Mùa Chay, các giờ kinh tối gia đình… Nhờ đó chúng ta sẽ có
một nguồn suối làm thỏa mãn cơn khát nội tâm, và làm cho lòng chúng
ta trở thành một mạch nước mới dẫn đến ơn cứu độ như lời Chúa dạy hôm nay:
“Còn ai uống nước tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa” (Ga 4,14a).
- Cần hãm mình ăn chay để có điều kiện làm nhiều việc bác ái yêu
thương như phương thế truyền giáo hữu hiệu trong hoàn cảnh xã hội hôm nay: Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã khẳng
định: “Trong thế giới hôm nay người ta cần những chứng nhân hơn là thầy dạy và
nếu họ có nghe thầy dạy thì thầy dạy đó cũng là chứng nhân”. Câu chuyện
sau đây chứng minh điều này: “Có một người đàn ông nọ mới theo đạo.
Một hôm có người muốn thử đức tin của ông liền hỏi: “Anh theo đạo
nhưng có biết Đức Giê-su là ai không ?” Người tân tòng trả lời: “Dĩ
nhiên là biết chứ”. Người kia hỏi tiếp: “Thế Đức Giê-su sinh ra tại
đâu ?” Người tân tòng im lặng không trả lời được. Người kia hỏi tiếp:
“Thế Đức Giê-su chết khi được bao nhiêu tuổi ?” Một lần nữa, người tân
tòng lại không biết. Người kia liền nói: “Anh chẳng biết gì về đạo.
Vậy tại sao anh lại theo đạo ?” Bấy giờ người tân tòng mới nói: “Thú
thật với anh: tôi biết rất ít về giáo lý. Nhưng điều tôi biết rất
rõ là: Cách đây hai năm, do nợ ngân hàng mất khả năng chi trả, nên gia
đình tôi lâm vào hoàn cảnh khốn cùng bị đuổi ra khỏi nhà để sống lang
thang nay đây mai đó. Trong thời gian ấy, tôi buồn chán đi uống rượu và trở
thành một kẻ luôn say xỉn và khi về đến nhà là lại la mắng vợ con. Vợ tôi
lúc nào cũng buồn rầu khóc lóc. Các con tôi thì luôn sợ phải nhìn
thấy mặt ba của chúng. Nhưng sau đó. tôi rất may đã gặp được một linh
mục tốt bụng. Ông đã tận tình giúp đỡ gia đình tôi vượt qua cơn khó
khăn: Ông giúp tôi có được một công việc thu nhập ổn định, và giúp gia
đình tôi trở thành con Thiên Chúa. Ông còn giúp bản thân tôi trở thành một
con người sống tiết độ và có trách nhiệm hơn đối với gia đình của mình.
Hiện nay tôi đã đòi lại được căn nhà cũ trước kia. Vợ chồng tôi sống với
nhau rất hòa hợp hạnh phúc. Các con tôi đều khỏe mạnh, học hành
tiến bộ và luôn ngoan ngoãn hiếu thảo. Tôi xác tín rằng: “Chính
Đức Giê-su đã biến đổi gia đình tôi từ khi tôi gặp được Người qua trung
gian một vị linh mục !” Quả thật đúng như lời Đức Giê-su đã
phán trong Tin Mừng hôm nay: “Ai uống nước tôi cho sẽ trở thành nơi
người ấy một mạch nước vọt lên đem lại sự sống đời đời” (Ga 4,14b).
4. THẢO LUẬN:
1) Chúng ta thường mong ước
những điều gì và cảm thấy thế nào khi chiếm hữu được chúng ? 2) Bạn có
cảm nghĩ gì về Lời Chúa hứa sẽ ban Nước Hằng Sống cho những ai tin
và uống nước ân sủng của Người ?
5. NGUYỆN CẦU:
LẠY CHÚA GIÊ-SU. Xin hãy biến đổi chúng con trong Mùa Chay
này. Xin cho chúng con gặp Chúa trong thánh lễ, những buổi tĩnh tâm
sám hối… để biết rõ con người thật của mình. Xin cho chúng con năng uống
Nước Hằng Sống là Lời Chúa dạy và Thánh Thể Chúa, nhờ đó, cuộc đời
chúng con sẽ tươi vui hơn. Xin cho chúng con sẵn sàng loại trừ những thành
kiến với tha nhân, để quảng đại tha thứ, quên mình phục vụ và luôn đi
bước trước đến với tha nhân, như Chúa đã nêu gương trong Tin Mừng hôm
nay. Xin cho chúng con luôn cầu nguyện như thánh Au-gút-ti-nô : “Lạy Chúa,
Chúa đã dựng nên con hướng về Chúa, và tâm hồn con vẫn còn xao xuyến mãi cho
đến khi nào con được nghỉ yên trong Chúa”; Xin giúp chúng con luôn thực hành Lời
Chúa như Mẹ Ma-ri-a đã căn dặn các người giúp việc yại tiệc cưới Ca-na xưa:
“Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo” (Ga 2,5b).- AMEN.
LM ĐAN VINH - HHTM