(Gioan
20,1-9 – CN PHỤC SINH - Ban ngày)
1.- Ngữ
cảnh
Chúng ta đã sang phần ii của TM Ga, gọi là “Sách về Giờ của Đức Giêsu” với hai phần chính: (1) Đức
Giêsu cáo biệt khi đến Giờ (tại Bữa tối cuối cùng) (Ga 13–17); (2) Giờ của cuộc Khổ Nạn-Chết-Sống lại của Đức Giêsu
(18,1–20,29).
Phần ii
có cấu trúc như sau:
A
(18,1-14+) : Đức Giêsu uy nghi toàn năng trước Giuđa kẻ phản bội và nhóm đi bắt
Người.
B
(18,12-27) : Đức Giêsu bị xử trước thượng tế và các lần Phêrô chối tư cách môn
đệ.
C
(18,28–19,16b) : Cuộc xử án và kết án Đức Giêsu, vua dân Do Thái, do Philatô
thực hiện.
C’(19,16c-42)
: Vua dân Do Thái chịu đóng đinh, chết và được an táng trên đồi Gôngôtha.
B’(20,1-18)
: Phêrô và người môn đệ Chúa yêu tại mồ trống và Đức Giêsu hiện ra với Maria
Mácđala.
A’(20,19-29)
: Các lần Chúa Giêsu hiện ra với các môn đệ và Tôma người không tin.
2.- Bố
cục
Bản văn Ga 20,1-10 có thể chia thành hai phần:
1) Thời gian: Sáng sớm
ngày thứ nhất, Maria Mácđala ra mộ (20,1-2);
2) Hành động chính:
Phêrô và Gioan ra mộ (20,3-10).
3.- Vài
điểm chú giải
- lúc
tảng sáng (1): Prôi, dịch sát là
“lúc sớm trong buổi sáng”. Đây là canh cuối theo cách chia của người Rôma, từ
3-6 giờ sáng (người Rôma tính giờ bắt đầu từ nửa đêm).
- Maria
Mácđala (1): TM Ga chỉ nêu tên
một mình bà Maria Mácđala; Mt nêu tên hai bà; Mc nêu ra ba bà;
còn Lc (24,10) nêu tên ba bà “cùng với các phụ nữ khác”. Có lẽ truyền
thống Nhất Lãm sát thực tế hơn, bởi
vì khó mà cho rằng một phụ nữ lại dám
đi một mình trong lúc trời còn nhá
nhem đến nơi hành hình ở bên ngoài tường thành. Với lại chính câu nói của bà:
“Và chúng tôi chẳng biết họ để Người
ở đâu” gợi ý là có nhiều phụ nữ ở với bà. Ngoại trừ Lc 8,2 đã đặt bà Maria Mácđala vào thời gian Đức Giêsu hoạt động
công khai và giới thiệu như là người được trừ khỏi bảy quỷ, bà chỉ được nhắc
đến trong liên hệ với cuộc đóng đinh và với mộ trống mà thôi. Biệt danh của bà
cho thấy là rất có thể bà xuất thân từ thành Mácđala, ở về phía bờ biển tây bắc
của Hồ Galilê, cách Caphácnaum khoảng bảy dặm về phía tây nam.
- đi
đến mộ (1): Ga không xác định
lý do. Mc và Lc cho biết là các phụ nữ mang dầu thơm đến để tẩm
liệm thi hài Đức Giêsu. Mt chỉ nói là các bà đến để nhìn xem mộ, có lẽ
vì Mt đã kể là mộ có lính canh nên các bà không thể vào mộ được.
- bà …
thấy
(1): TM IV có bốn động từ để diễn tả
cái nhìn, từ cái nhìn thể lý nhất đến cái nhìn chiêm ngưỡng sâu sắc nhất, đó
là: blepein, theôrein, theasthai, horan [idein].
Các chuyên viên cho rằng “thấy” ở đây là blepein,
cấp thấp nhất, nói về cái nhìn mang tính vật chất, cái nhìn bằng mắt thịt (x.
ch. 9; 21,9), và như thế blepein không
có một ý nghĩa đặc biệt. Dù vậy, vẫn có những ngoại lệ: 5,19 (Đức Giêsu thấy
Chúa Cha) và 9,39 (hẳn là tác giả có ý chơi chữ ở đây: dùng một động từ với hai
nghĩa).
Theôrein có nghĩa là nhìn tập
trung, tức là phải có nhiều thì giờ hơn blepein,
do đó cũng hàm ý một sự hiểu biết sâu xa hơn; cái nhìn này đưa đến chỗ chấp
nhận Đức Giêsu là một con người đặc biệt, có khả năng làm các việc kỳ diệu, nhưng
chưa phải là đức tin tròn đầy (x. 2,23; 4,19; 6,2.19;20,12.14). Tuy nhiên cũng
có ngoại lệ: 6,40; 17,24; còn 14,17 có lẽ là một kiểu chơi chữ với hai nghĩa.
Horan (idein) có nghĩa
là cái nhìn kèm theo sự hiểu biết đích thực, tức đưa tới đức tin (20,8.25). Câu
16,16 có cách dùng các động từ như thế: “Một ít nữa, anh em sẽ không thấy Thầy
(= theôrein), rồi một ít nữa, anh em sẽ xem thấy (= horan) Thầy”. Xem thêm 1,34.50.51; 3,11.32; 11,40; 14,7.9;
19,35.37; 20,29. Tuy nhiên, cũng có ngoại lệ, khi horan được dùng theo nghĩa thể lý: 1,39; 5,6; 4,45.48; 6,14.22.24.30.36;
7,52; 12,9 (horan = theôrein).
Theasthai được một vài nhà chú
giải dịch là “chiêm ngưỡng”, với nghĩa là hiểu ý nghĩa sâu xa của các sự việc
đang xảy ra (x. 1,14; 4,35) và nếu dựa vào 1
Ga 1,1, dường như horan là cấp
thấp hơn theasthai (“điều chúng tôi
đã thấy [horan] tận mắt, điều chúng
tôi đã chiêm ngưỡng [theasthai]”).
Tuy nhiên, ở 1,38 và 6,5, theasthai dường như chỉ có nghĩa là nhìn
thấy thể lý; ở 1,32 (= 1,34); 11,45, theasthai
lại được dùng đồng nghĩa với horan.
Bởi vì theasthai không được dùng nhiều
và phong phú như horan, chúng tôi tạm
xếp theasthai vào cấp thứ ba.
- tảng đá
(1): Tác giả viết y như thể độc giả biết rõ tảng đá này. Cũng như tác giả Lc,
tác giả Ga không nói đến việc niêm phong tảng đá (x. Mt 27,66) hay niêm phong ngôi mộ bằng
một tảng đá.
- đã cất
khỏi mồ (1 - NTT): Các TMNL nói là “đã được lăn ra” (Mc 16,4; Mt 28,2; Lc 24,2 dùng
động từ apokyliô, “lăn đi xa”, ở thái
bị động); Ga thì nói “đã được cất (êrmenos]
khỏi mồ”. Ngành khảo cổ xứ Paléttina cho thấy là có những ngôi mộ nằm ngang và
cửa vào các ngôi mộ này nhỏ hẹp, có khi cao chỉ gần một thước, nên người lớn thì phải trườn mà vào. Người ta có thể niêm
mộ bằng một tảng đá chắn ngay cửa
vào. Nhưng cũng có những ngôi mộ rộng hơn thì cửa được chắn bằng một tảng đá có thể lăn tròn theo một cái rãnh ở ngang cửa vào, giống như một cánh cửa lùa. Ngôi mộ rộng bên trong có
thể có một gian ngoài; gian trong mới
dành để mai táng người quá cố. Có nhiều cách mai táng: có khi người ta khoét
những cái hầm đục vào sâu trong vách đá và đẩy thi hài vào trong đó, đầu đi
trước; có khi người ta lại đẽo vào đá để làm thành những tầng có những cái ổ
bán cung (như một cái kệ) cách mặt
đất chừng nửa thước để đặt thi hài vào; có khi người ta đặt một băng bằng đá
sát vách và đặt thi hài lên. Dường như Đức Giêsu được mai táng trong một ngôi
mộ rộng và theo cách cuối cùng.
- Bà liền
chạy về (2): Maria Mácđala đã nhìn vào mộ nên phát hiện ra là thi hài không
còn ở đó nữa, hay là bà suy diễn ra từ sự kiện ngôi mộ không còn bị niêm phong?
Người ta thường theo giả thuyết thứ nhất vì hiểu theo lẽ thường; nhưng cứ theo
bản văn TM IV thì phải hiểu theo giả
thuyết thứ hai, bởi vì trời còn tối và bởi thông tin là đến c. 11, bà mới “cúi
xuống nhìn vào trong mộ”. Nhiều người giải quyết khó khăn này bằng cách cho
rằng lúc đầu c. 11 đi theo c. 1.
- gặp ông
Simôn Phêrô (2): Người ta thường cho rằng Maria đi tìm Phêrô vì ông là thủ lãnh
các môn đệ Đức Giêsu. Nhưng đơn giản hơn, nên nhớ rằng Phêrô không chạy trốn
với các ông khác và ông ở gần Đức Giêsu khi Người bị giới chức Do Thái thẩm vấn
(Ga 18,27).
- người môn
đệ Đức Giêsu thương mến (2): Dung mạo bí ẩn “người môn đệ Chúa thương mến” được
đưa vào đột ngột ở Ga 13,23, lúc mà
truyện sắp lên tới cao đỉnh, lúc mà Đức Giêsu quy tụ các môn đệ thân tín lại để
chia sẻ một bữa ăn tạ từ và ban những giáo huấn cuối cùng (x. Ga ch. 13–17). Điều này khiến ta hiểu
rằng người môn đệ Chúa thương mến là một dung mạo được cộng đoàn tác giả
quen biết. Là người không được nêu tên và cứ tiếp tục ở trong tình trạng vô
danh cho đến hết Tin Mừng, người môn
đệ này được sống một tình thân mật với Đức Giêsu đặc biệt hơn cả nhóm:
ông được mô tả là người môn đệ Đức Giêsu yêu thương, người nghiêng mình vào
ngực Đức Giêsu (en tô kolpô tou Iêsou, Ga 13,23; x. 13,25; 21,20 [epi to stêthos]). Kiểu thân mật
này gợi nhớ tình thân mật giữa Đức Giêsu và Chúa Cha: Đức Giêsu, được Chúa Cha
yêu thương (Ga 15,9; 18,26), là người
Con Một, ở trong lòng Chúa Cha (ho ôn eis ton kolpon tou patros, Ga 1,18). Đến Ga 18,15, thì xuất hiện “một môn đệ khác”, có lẽ cũng vẫn là người
môn đệ Đức Giêsu yêu thương đã được Simôn Phêrô làm hiệu hỏi Đức Giêsu trong
bữa tối cuối cùng (Ga 13,24). Tại
chương 19, người môn đệ ấy xuất hiện bên cạnh thân mẫu Đức Giêsu (Ga 19,26). Đến chương 20, tác giả đồng
hóa “người môn đệ Đức Giêsu thương mến” (20,2) với “người môn đệ kia” (20,4.8).
Simôn Phêrô và “người môn đệ Đức Giêsu thương mến” lại xuất hiện bên nhau trong
chương cuối cùng (21,7.20).
Người
môn đệ này là ai? Tác giả Ga đã nhấn
mạnh 5 lần rằng nguồn của ngài chính là “người môn đệ Đức Giêsu thương mến”
(13,23; 19,26; 20,2; 21,7.20). Các học giả đã nghĩ tới nhiều nhân vật: Gioan,
con ông Dêbêđê; Ladarô; Gioan Máccô (x. Cv
12,12); Trưởng lão Gioan; một dung mạo tượng trưng. Cho đến nay giả thuyết mạnh
nhất (R.E. Brown) vẫn là coi người môn đệ ấy là Gioan, con ông Dêbêđê và là tác
giả TM IV (trừ hoặc kể cả chương 21)[1]. J.A. Grassi[2] đã viết một quyển sách
nhỏ để chứng minh: (1) Dựa vào TM Ga,
người môn đệ này là một người có thật, nhưng không phải là Gioan, con ông
Dêbêđê và một trong Nhóm Mười Hai. (2) Đây là một dung mạo vừa có những nét
giống với Giacóp vừa có những điểm giống với Giuse con yêu quý của Giacóp. (3)
Đây là người môn đệ trẻ vô danh đã cùng với Anrê đến với Đức Giêsu bên bờ sông
Giođan. (4) Người môn đệ này xuất thân từ miền Giuđê, có lẽ thuộc một gia đình
tư tế ở Giêrusalem. (5) Người môn đệ này là “em bé” đã tặng năm chiếc bánh và
hai con cá. (6) Người môn đệ này có vị trí ưu tiên trong bữa tối cuối cùng,
biết trước bí mật thâm sâu của Đức Giêsu về chuyện bị phản bội và phải chết, vì
ông là người kế thừa thầm kín có sứ mạng giúp cho thế gian hiểu thật sâu cuộc
sống và đặc biệt cái chết của Người. (7) Bản văn trọng yếu là vào lúc đứng dưới
chân thập giá, người môn đệ này chứng kiến và hiểu ý nghĩa của cái chết của Đức
Giêsu. Dù thế nào, có thể nói người môn đệ này là người thừa kế đích thực của
Đức Giêsu. Chương 21 này khiến ta nhớ lại những bản văn có nhân vật này, và
nhắc lại các điểm này: người nào phải kế tục Đức Giêsu thì phải được chọn phù
hợp với ý muốn của Đức Giêsu và tương ứng với sự chọn lựa bằng tình yêu. Đến
cuối chương 21 này, ta thấy rõ ơn gọi của hai người môn đệ: người môn đệ Chúa
thương mến có ơn gọi làm chứng, còn Phêrô có ơn gọi điều khiển cộng đoàn hoặc
ơn gọi chăn dắt đoàn chiên.
Các học giả chưa đạt
tới tiếng nói chung về nhân vật này. Dù sao, chúng tôi nghĩ kiểu gọi “người môn
đệ Chúa thương mến” hẳn không phải là kiểu gọi của chính người môn đệ ấy, nhưng
của các môn đệ của người ấy[3]. Đến đây cứ cho đi là
một người có thật, nhưng khi không có tên như thế, người môn đệ ấy đã trở thành
biểu tượng cho mọi môn đệ của Đức Giêsu. Điều này được diễn tả rõ ràng trong
hoạt cảnh trên Đồi Sọ, khi Đức Giêsu ký thác “người môn đệ mình thương mến” cho
thân mẫu: “Thưa Bà, đây là con của Bà”. Đặc biệt được đặt tương phản trong tình
thế đầy kịch tính với Phêrô, người môn đệ Chúa thương mến tượng trưng đức tin
tinh trong của cộng đoàn tác giả, còn Phêrô của TM IV tượng trưng các môn đệ của Đức Giêsu trong tình trạng hàm hồ
về tư cách môn đệ, một đức tin còn pha trộn nơi các Họi Thánh thời các tông
đồ.
- đem
Chúa (2): Có lẽ bây giờ viết trong giai đoạn hậu Phục Sinh, tác giả đã sử
dụng danh hiệu “Chúa” (kyrios) này
như một cách diễn tả niềm tin của cộng đoàn Kitô hữu.
- và
chúng tôi (2): Chỉ có một mình Maria Mácđala ở ngoài mộ. Thế mà bà lại nói
là “chúng tôi”. Người ta giải thích nhiều cách: (1) Có các bà khác, nhưng tác
giả đơn giản hóa, chỉ nói đến bà Maria Mácđala thôi; (2) Từ “chúng tôi” là để
dung hòa TM IV với các TMNL
(Wellhausen và Spitta); nhưng vấn đề là vì sao TM IV khác các TMNL
ở rất nhiều chi tiết, mà lại ráng dung hòa tại một chi tiết nhỏ, tinh tế như thế? (3) Bultmann và vài tác giả khác
nghĩ rằng từ “chúng tôi” chỉ là một cách
diễn tả Sêmít để nói “tôi”; nhưng dù sao chúng ta cũng lấy làm lạ là trong
truyện tiếp theo, Maria lại nói lại câu này, mà lần này ở số ít (c. 13).
Có lẽ cách giải thích
đầu tiên là tốt nhất và tự nhiên nhất.
- chạy
mau hơn (4): Cha Lagrange cho rằng vì “người môn đệ kia” còn trẻ hơn và
nhanh nhẹn hơn Phêrô nên chạy mau hơn. Ishodad de Merv cho rằng vì ông chưa lập
gia đình! Có tác giả cho rằng vì tình yêu đã làm cho ông chạy nhanh. Nhưng hợp
lý là cho rằng vì ông biết cách chạy hơn Phêrô.
- nhưng
không vào (5): Nhiều nhà chú giải cho rằng “người môn đệ Chúa thương mến” không
vào vì kính trọng Phêrô là đàn anh, hay là vì kinh ngạc, hoặc vì sợ hãi (sợ
ma!), hoặc muốn tránh sự lây nhiễm theo nghi thức khi chạm vào một xác chết.
Những kiểu giải thích như thế không hòa hợp được với dung mạo đã được
lý-tưởng-hóa của người môn đệ này trong TM.
Có lẽ cách giải thích tốt nhất là nói rằng tác giả đã ghi lại một chi tiết không đáng kể như thế, là vì
đã xảy ra đúng như thế. Khi kể lại một biến cố quan trọng, ngài lại nhớ lại cả
một chi tiết nhỏ bé như thế, và ghi
lại trong TM của ngài để gợi lên
trung thực điều ngài đã sống (Guillemette).
- Ông cúi
xuống và nhìn thấy (5): “Thấy” ở đây là blepô.
- Phêrô
theo sau (6): Phêrô bước theo (akolouthôn)
người môn đệ Chúa thương mến như là môn đệ? Động từ “bước theo” rất hiếm khi được
dùng theo nghĩa này; thông thường người ta chỉ “bước theo” Đức Giêsu. Ai muốn
đặt đối lập Phêrô với người môn đệ Chúa thương mến thì nhắm vào cách sử dụng
trên. Nhưng thật ra như thế là phóng đại.
- Ông vào
… thấy (6):
Simôn Phêrô “thấy”: động từ được dùng là theoreô,
tương tự người môn đệ Chúa thương mến.
- khăn
che đầu (7): Soudarion là một cái khăn giống như nhưng có lẽ to hơn
cái khăn tay. Có thể người ta dùng chiếc khăn này để bọc lấy cằm và thắt lại
trên đầu để cho miệng người chết khỏi mở ra.
- các
băng vải (7): Khác với Ladarô (11,43), khi sống lại, Đức Giêsu không cần ai
giúp cả. Sự kiện “băng vải để ở đó, và khăn che đầu xếp riêng ra một nơi” loại trừ giả thuyết là có một cuộc đánh cắp thi hài, bởi vì không kẻ
nào lại còn nghĩ đến việc lột trần thi hài ra.
- Ông đã
thấy và đã tin (8): “Thấy” ở đây là horan,
một cái nhìn đưa tới đức tin. Từ cấp “thấy thấp nhất bằng cặp mắt thể lý (blepô, c. 5), người môn đệ khác đã đạt
tới cấp “thấy” cao nhất (horan) bằng
đức tin. Câu văn hẳn cho phép được hiểu: đã
thấy (eiden, thì quá khứ aorist
của horan) = đã tin (episteusen, aorist
của pisteuô).
4.- Ý
nghĩa của bản văn
Các môn đệ biết rằng
Đức Giêsu đã chết và đã được mai táng. Ngôi mộ và thi hài là dấu vết cuối cùng
của Đức Giêsu trần thế. Tất cả những gì tác giả TM IV quy chiếu đến ở
đây, đều tiến đi từ ngôi mộ này và liên hệ đến thi hài của Đức Giêsu. Đối với
các môn đệ, chặng cuối cùng của Đức Giêsu là ngôi mộ; các phụ nữ cũng như các
ông đều không hề quay hướng về cuộc Phục Sinh của Người: chẳng hạn phản ứng
của Maria Mácđala ở đây chứng tỏ bà nghĩ
rằng Đức Giêsu đã chết thật. Họ không hề hiểu những loan báo Người đã cung cấp,
cũng chẳng hiểu những gì được viết trong Kinh
Thánh. Ở đây, tác giả cho thấy những bước đầu đưa các môn đệ đi từ ý thức
là Đức Giêsu đã chết đến hiểu biết là Người đã sống lại. Con đường đi từ nỗi
kinh ngạc này đến nỗi kinh ngạc khác, và không phải tất cả các môn đệ đều đạt
tới mục tiêu cùng một lúc.
* Thời
gian: Sáng sớm ngày thứ nhất, Maria Mácđala ra mộ (1-2)
Trong cả bốn Tin Mừng, các môn đệ của Đức Giêsu, dù
nam hay nữ, đều tỏ ra kính trọng ngày sa-bát. Chúng ta thấy các ông đã hạ thi
hài Đức Giêsu khỏi thập giá trước khi bắt đầu ngày sa-bát (Ga 19,31 và các bản văn song song), còn các phụ nữ chỉ đi ra một
sau ngày sa-bát (Ga 20,1 và các bản
văn song song).
Lúc tảng sáng, Maria
Mácđala đã đi ra mộ Đức Giêsu. Chúng ta tự hỏi là vì sao bà lại ra mộ khi trời
chưa sáng hẳn? – Tác giả trung thành với biểu tượng ánh sáng đã nói đến ngay
trong Lời Tựa (1,9), rồi ở 8,12 khi Đức Giêsu tuyên bố Người là “ánh sáng cho
trần gian”, rồi Giuđa bỏ Người là đi vào bóng tối (13,30). Ở đây, vì Đức Giêsu
đã chết, nên ánh sáng đã tắt. Tuy nhiên, trời đã tảng sáng như là một dấu chỉ
xa xa cho biết Đức Giêsu sắp sống lại và Maria Mácđala sẽ gặp được Người.
Đến nơi, bà thấy (blepei) là tảng đá đã được lăn khỏi mộ và cửa mộ đã mở. Dựa vào
điểm quan sát đó, bà giải thích: bà nghĩ rằng thi hài của Đức Giêsu đã được
mang đi khỏi mộ. Đó là lời giải thích hợp lý nhất, theo những tiêu chí loài
người, khi đứng trước một ngôi mộ đã
mở và trống không. Một thi hài thì ở thế hoàn toàn thụ động: đã được người ta
đưa vào đặt trong mộ, nay có thể lại đã được người ta đưa đi.
Vì hết sức bận tâm tìm
biết là ai đã mang xác Đức Giêsu đi và nay đã đặt ở đâu, Maria đi tìm Phêrô và
người môn đệ Đức Giêsu thương mến. Lối xử sự này chứng tỏ bà rất thương yêu Đức
Giêsu. Nhưng trong khi bà còn bận tâm về thi hài Đức Giêsu, Người đã sống lại
rồi. Khởi đi từ ngôi mộ của Người, các môn đệ còn phải đến gặp Người trên nẻo
đường mà chính Người đã đi qua. Hai người môn đệ đến mộ là hai người đặc biệt
gắn bó với Người khi Người còn sống: Phêrô là người đã được Đức Giêsu đổi cho
một tên mới (1,42) và luôn được để ý
trong nhóm các môn đệ (6,68-69; 13,6-10.35-38); người môn đệ kia là người đặc
biệt gần gũi với Đức Giêsu (13,23-24; 18,15-16; 21,20-23).
* Hành
động chính: Phêrô và Gioan ra mộ (3-10)
Tin tức Maria Mácđala
đưa đến khiến các môn đệ hốt hoảng. Phêrô và người môn đệ Chúa thương mến muốn
chính mình đi kiểm chứng sự việc, hai ông chạy ra mộ. Tốc độ khác nhau không có
nghĩa là lòng nhiệt thành khác nhau, nhưng là khả năng thể lý khác nhau. Các
hành động tiếp đó của hai ông đan quyện vào nhau và càng lúc càng vượt xa điều
Maria Mácđala đã quan sát được. Người môn đệ Đức Giêsu yêu thương đến mộ trước.
Ông không chỉ nhìn từ bên ngoài, mà còn nghiêng mình nhìn vào bên trong và thấy
(blepei) những băng vải. Phêrô đi vào
trong mộ, thấy (theôrei) các băng vải
và khăn liệm gấp lại để riêng ra một góc.
Những gì Phêrô ghi nhận được thì đi ngược lại với cách giải thích của Maria:
không thể cho rằng người ta mang một thi
hài đi mà lại tháo gỡ các tấm vải bọc thi hài ra trước, và còn gấp lại để riêng
ra. Gỡ mình khỏi các tấm vải liệm là hành vi ngược lại với việc bọc thi hành
trong các tấm vải (x. 19,40). Như thế, việc tẩm liệm đã thành vô ích rồi. Ngôi
mộ trống và các dải vải cuộn để riêng không phải là một bằng chứng, nhưng là một dấu
chỉ cho biết rằng Đức Giêsu đã rời bỏ ngôi mộ và đã chiến thắng cái chết.
Phêrô ghi nhận chính
xác tình huống, nhưng có tin chăng, bản văn không khẳng định minh nhiên. Người
môn đệ kia đi vào mộ sau ông, cũng thấy tình cảnh như thế và thực hiện được một bước xa hơn: đã thấy (eiden) và đã tin (episteusen) (c. 8). Dường như tác giả TM IV chia sẻ với Lc
24,12 ý tưởng là Phêrô không bị thuyết phục bởi cuộc thanh sát ngôi mộ trống,
nhưng cách ngài trình bày về tình trạng Phêrô thiếu đức tin thì tinh tế hơn là
tác giả Lc. Tác giả TM IV không nói là Phêrô không tin. Ngài
chỉ kể rằng người môn đệ Chúa thương mến “đã thấy và đã tin”. Các động từ này
là tiêu biểu của TM IV, nhưng đều ở
số đơn, tức về ngữ pháp thì tương phản với dạng số phức ở các câu trước (“Ông
Phêrô và môn đệ kia liền đi ra [êrchonto]
mộ. Cả hai người cùng chạy [etrechon]”)
và ở các câu sau (“hai ông chưa hiểu [êdeisan]
Kinh Thánh, rằng…”). Hai môn đệ đã đi ra mộ; nay chỉ một người rời mộ
như là người tin: đó là người môn đệ Chúa thương mến. So với người ấy, thì phải
nói Simôn Phêrô còn thiếu đức tin.
Dù sao chỉ những lần
Đấng Phục Sinh hiện ra mới làm cho dấu chỉ mộ trống không còn mang tính hàm hồ
nữa và sẽ đưa tất cả các môn đệ đến chỗ tin vào Người.
“Sau
đó, các môn đệ lại trở về nhà”: Làm sao có thể thản nhiên trở về nhà sau một
kinh nghiệm như thế? Rất có thể đây là chuyện đã xảy ra. Sau một kinh nghiệm quá
mạnh như vậy, các ông cần thì giờ để phản ứng. Các ông không reo hò cũng không
ca hát: các ông trở lại với đời sống thường ngày.
+ Kết
luận
Những điều vừa được kể
ở đây đã được kiểm chứng vào “lúc tảng sáng” (20,1). Trong TM IV, giờ và các biến cố tương ứng với nhau. Vào lúc tảng sáng, có
nhiều điều tiên báo một sự thay đổi
tận căn: đêm đang qua đi, chân trời rạng sáng dần, các sự vật rõ nét thêm. Ai
chưa bao giờ thấy mặt trời, thì không thể biết điều gì đã gần kề. Mặt trời lên
soi sáng tất cả và làm cho mọi điều đã được tiên báo nên sáng tỏ. Các môn đệ
còn đang ở trong tình trạng tranh tối tranh sáng, ở trong tình trạng gồm những
dấu chỉ tiên báo và chờ đợi. Chỉ khi họ gặp Đấng Phục Sinh, mặt trời mới mọc
lên cho họ, mọi sự mới nên sáng tỏ. Đêm đen và bóng tối, cái chết và niềm đau,
sự bần khốn và yếu đuối đều được ánh sáng của Đấng Phục Sinh, được vinh quang
của sự sống vĩnh cửu của Người, chiếu rọi.
Không còn thi hài của Đức
Giêsu trong mộ nữa. Điều này rất quan trọng đối với sự phục sinh: Bởi vì người
ta không thể tìm ra xác ướp của Đức Giêsu hay một vài vết tích, vài mảnh rơi
rớt của thi hài, mà lại khẳng định về sự Phục Sinh được. Bởi vì Phục Sinh không
phải là một hiện tượng thiêng liêng nào đó chỉ liên hệ tới phần hồn, nhưng sự
Phục Sinh đặt dấu ấn lên trên toàn thể con người: thân xác và linh hồn, và biến
đổi cách vĩnh viễn toàn thể con người. Vậy không bao giờ được hiểu Phục Sinh
chỉ là sự hồi sinh của một người chết như chẳng hạn trường hợp Ladarô, vì sau
này ông cũng lại đã chết. Sự Phục Sinh là việc chuyển sang một cuộc sống bên
kia cái chết, sang một cuộc sống không cùng, nghĩa là một đời sống vĩnh cửu.
5.- Gợi ý
suy niệm
1. Trong cuộc sống, có lắm phen chúng ta nếm
cảm những thất bại đau đớn, chúng ta muốn buông xuôi, y như ngôi mộ đã được một tảng đá niêm phong lại, chẳng còn gì để
hy vọng, ngoài một niềm nuối tiếc
khôn nguôi. Nhưng “tảng đá đã lăn ra khỏi mộ”! Chính Thiên Chúa đã lăn tảng đá
ra khỏi mộ Đức Giêsu, thì Ngài cũng lăn được những tảng đá đang chắn cuộc đời
chúng ta lại, miễn là chúng ta đừng nhất định bám cứng vào những tảng đá đó.
2.
Tác giả TM IV viết: “Ông đã thấy và
đã tin”. Đó là một lời chứng, nhưng
cũng là một lời thú nhận là ngài đã
không thể hiện được trọn vẹn mối phúc Đức Giêsu công bố: “Phúc thay kẻ không
thấy mà tin” (20,29). Chỉ có Đức Maria, Thân Mẫu Đức Giêsu, mới đạt được mức độ
đức tin ấy: tại Cana, trước khi Đức Giêsu làm phép lạ đầu tiên, Mẹ đã tin cách
nào đó, nên mới cho Con biết là tiệc hết rượu. Quả thật, tin không phải là một
chuyện dễ dàng hay dễ dãi, trốn tránh trách nhiệm, như nhiều người vẫn
nghĩ.
3.
Các Tông Đồ chỉ có thể làm chứng rằng các ông đã biết Đức Giêsu trước khi chịu
chết, đã gặp lại Người đang sống; nhưng các ông không thể nói về cách thức Đức
Giêsu đã sống lại. Niềm tin của Kitô hữu hôm nay cũng khẳng định Đức Giêsu đã
chết và đã sống lại, nhưng không thể trả lời những câu hỏi về cách thức diễn
tiến sự Phục Sinh. Nhưng không thể phủ nhận được sự Phục Sinh, bởi vì chính sự
hiện diện và hoạt động của Đức Kitô Phục Sinh trong đời người Kitô hữu đang làm
thay đổi con người họ, và họ đang trải nghiệm điều đó. Họ có thể làm chứng, chứ
họ không thể giải thích, vì đây là một mầu
nhiệm, nhưng là một mầu nhiệm làm cho
sống.
4.
Nếu như hai môn đệ đã ghi nhớ và tin những lời Đức Giêsu đã nói trước về cuộc
Thương Khó và Phục Sinh của Người, các ông đã chẳng phải chạy trên nẻo đường
đưa tới mộ, đưa tới cõi chết, đưa tới sự tuyệt vọng, trong khi Thầy của các ông
đã sống lại, và nay đã “lên cùng Cha của Thầy, cũng là Cha của anh em, lên cùng
Thiên Chúa của Thầy, cũng là Thiên Chúa của anh em” (20,17). Tuy nhiên, thái độ
của hai ông lại là bài học quý cho chúng ta hôm nay, vì chúng ta cũng vẫn có
thể rơi vào tình trạng tiêu cực ấy.
5.
Trong một Bài giảng được gán cho thánh Gioan Kim Khẩu (? 345-407), có đoạn: “Xin
đừng có một ai buồn sầu về sự nghèo khó của mình, bởi vì Vương Quốc đã hiện ra
cho tất cả mọi người; xin đừng có một ai than thở về các lỗi lầm của mình, bởi
vì ơn tha thứ đã trào vọt ra từ ngôi mộ; xin đừng có một ai sợ hãi cái chết,
bởi vì cái chết của Đấng Cứu thế đã giải thoát chúng ta. Người đã tiêu diệt cái
chết, Đấng mà cái chết đã bóp nghẹt, Người đã tước đoạt hỏa ngục, Đấng đã xuống
âm phủ…
Isaia đã tiên báo điều
này khi nói: « Vì ngươi, âm phủ dưới vực sâu cũng rung động để ra đón
ngươi vào” (14,9). Âm phủ đã ngập tràn cay đắng..., vì nó đã bị đánh ngã; bị sỉ
nhục, vì nó đã bị giết chết; bị quỵ ngã, vì nó đã bị triệt tiêu. Nó đã bắt lấy
một thân xác và đã ra trước nhan Thiên Chúa; nó đã nắm lấy trái đất và đã gặp
trời; nó đã bắt lấy cái gì nó thấy, và đã té ngã vì Đấng Vô Hình. “Hỡi tử thần,
đâu là nọc độc của người? Hỡi tử thần, đâu là chiến thắng của ngươi?” (1 Cr 15,55). Chúa Kitô đã sống lại và
người bị đánh bại! Chúa Kitô đã sống lại và ma quỷ đã ngã xuống! Chúa Kitô đã
sống lại và các thiên thần hân hoan vui mừng! Chúa Kitô đã sống lại và đây sự
sống hiển trị! Chúa Kitô đã sống lại và không còn kẻ chết trong mồ nữa, bởi vì Chúa
Kitô, sống lại từ kẻ chết, đã trở thành hoa quả đầu mùa của những ai đã an
giấc. Vinh quang và uy quyền thuộc về Người đến muôn thuở muôn đời. Amen”.
FX Vũ Phan Long, ofm
[1] Xem cách lý luận của R.E. Brown, The Gospel according to John, I, xciii-xcviii.
[2] J.A. Grassi,
The Secret Identity. Có thể xem ch.
13, từ trang 115.
[3] Dù người môn đệ này là ai, rất có thể
tác giả của Ga 21 cũng là tác giả của
2 Ga và 3 Ga. Ngoài ra, chúng ta thấy dấu vết của cùng một bàn tay tác giả
ở 3 Ga 12; Ga 19,35 và Ga 21,24 (x.
15,27: “anh em”).