nhiỆm
vỤ cỦa ngưỜi môn đỆ
(Mt 5,13-16 – CN
V TN - A)
1.- Ngữ cảnh
Bản văn đọc hôm nay nằm
trong Bài Giảng trên núi (ch. 5–7) và nói đến sứ mạng của người môn đệ
“trong thế gian”. Bản văn được trực tiếp kết nối với các “Mối Phúc” (5,3-12).
Các câu 11-12 nói về bách hại chỉ là những câu nhắc lại c. 10 và chuyển tiếp.
Nhưng cụm từ “phúc thay anh em” cho phép ta móc với từ “anh em” ở c. 13. Những
người nhận bản văn này không phải là một hạng tín hữu đặc biệt, nhưng là
các môn đệ đã được nói đến ở đầu chương (5,1) và được ngỏ lời trực tiếp ở cc.
11-12. Cộng đoàn Kitô hữu được nhắc nhớ đến bổn phận truyền giáo.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia làm
hai phần:
1) Môn đệ Đức Giêsu là
“muối cho đời” (5,13);
2) Môn đệ Đức Giêsu là
“ánh sáng cho trần gian” (5,14-16).
3.- Vài điểm chú giải
- anh em là (13): Đức Giêsu nói
trực tiếp với các môn đệ Người, để xác định sứ mạng của họ. Đây không phải là
một gợi ý về một chiều hướng nên theo, nhưng là một khẳng định về
tư cách, ơn gọi. Cũng có thể thấy cụm từ này có liên với Xh 19,6 (“Còn
các ngươi, các ngươi sẽ là một vương quốc tư tế cho Ta và một dân
tộc thánh”). Như Đức Chúa (Yhwh)
đã chọn dân Ngài giữa các dân nước và xác định tư cách của họ, Đức Giêsu cũng
đã chọn các môn đệ trong loài người và bây giờ xác định sứ mạng cho họ.
- muối cho đời… ánh
sáng cho trần gian (13.14): dịch sát là “muối của đất (gê)” và “ánh sáng của
thế gian/ trần gian (kosmos)”. Vì “đất” được dùng song song với “trần
gian”, nó không có nghĩa là đất bùn, đất bột, đất thịt, nhưng là “trái đất”,
tương tự với “trần gian”, “thế gian”. Cả hai từ “đất” và “trần gian” ở đây đều
có nghĩa là “toàn thể nhân loại”, tức có một tầm mức phổ quát.
- để họ thấy những công
việc tốt đẹp anh em làm (16): Dường như câu này mâu thuẫn với Mt 6,1-18 (nhất là với cc.1-2.5.16)? Thật ra, các bản văn nêu ra
hai lý do khác nhau: ở đây lý do là vinh quang của Cha trên trời; trong 6,1-18,
lý do là việc chúc tụng ngợi khen cá nhân mà đương sự đi tìm để thỏa mãn tính
khoe khoang của mình (x. 6,2-5). Hai bản văn cũng nói đến hai cách thức xử sự
khác nhau: ở đây, người môn đệ chỉ đơn giản tỏ mình ra là môn đệ của Đức Kitô,
là Kitô hữu; còn ở 6,1-18, Đức Giêsu kết án sự khoe khoang người ta tỏ ra để
lôi kéo sự chú ý của người khác.
4.- Ý nghĩa của bản văn
Mối Phúc cuối cùng liên hệ đến những người bị
bách hại vì sống công chính (5,10). Chính Mối Phúc này được Đức Giêsu lấy lại
mà ngỏ trực tiếp với các môn đệ, là những người đang ở ngay bên Người, và với
đám đông đang nghe Người (5,1): “Phúc thay anh em khi vì Thầy mà bị
người ta sỉ vả, bách hại và vu khống đủ điều xấu xa” (5,11). Đức Giêsu đã loan
báo cho các môn đệ biết ngay từ đầu phản
ứng tiêu cực của môi trường, nếu họ sống trung thành với Người, nếu họ tìm sự
công chính và quy hướng lối sống của họ theo chương trình của Người. Họ phải
trả lời thế nào? Ai cũng coi trọng việc mình được chấp nhận và nhìn nhận. Phải
chăng các môn đệ phải thích nghi với môi trường của họ, để được môi trường chấp
nhận? Phải chăng họ phải giới hạn quan hệ với một vòng những người có
cùng những ý tưởng như nhau, để khỏi gây mâu thuẫn? Cho họ cũng như cho tất cả
các Kitô hữu, hôm nay còn đang thường xuyên bị cám dỗ từ chối chân tính của
mình và tìm thích nghi, hoặc bị cám dỗ rút lui vào đàng sau cánh cửa, Đức Giêsu
giao cho nhiệm vụ làm muối cho đời và ánh sáng cho trần gian. Nhờ đó, cho dù họ
có bị sỉ nhục (5,11), họ vẫn đưa được người ta đến chỗ tôn vinh Chúa Cha trên
trời (5,16).
* Môn đệ Đức Giêsu là
“muối cho đời” (13)
Khi khẳng định rằng các
môn đệ là “muối cho đời”, Đức Giêsu cho hiểu các môn đệ có sứ mạng truyền giáo.
Do ơn gọi, họ phải đóng một chức năng đối với những người khác tương tự
muối đối với các thức ăn (giữ cho khỏi hư thối, làm cho thêm hương vị). Không
có muối, thức ăn bị hư thối; không có người Kitô hữu, xã hội thiếu mất một sức
mạnh thiêng liêng và luân lý có khả năng gìn giữ xã hội khỏi những sự dữ đang
muốn xâm nhập vào. Do đó, sự hiện diện của người Kitô hữu không phải là không
đáng kể hoặc có hay không cũng vậy. Giống như muối, sự hiện diện của Kitô hữu
không thể thay thế. Không ai có thể đứng vào vị trí của họ nếu họ bị suy yếu
đi. Tác giả lưu ý và răn đe các Kitô hữu coi chừng kẻo mình trở nên nhạt nhẽo
đi. Họ cũng sẽ như muối, khi đã nhạt thì chỉ còn đáng loại bỏ (x. 5,22.29).
* Môn đệ Đức Giêsu là
“ánh sáng cho trần gian” (14-16)
Hình ảnh ánh sáng (cc. 14-15) là hình ảnh của Kinh Thánh (x.
Xh 3,2; Is 60,19; Is 42,6). Tác giả Gioan gán cho Đức
Giêsu chức năng mà ở đây Mt gán cho các môn đệ. Bóng tối, đêm tối, trong
Cựu Ước cũng như Tân Ước, là biểu tượng của các thế lực sự ác (x. Mt 8,12;
Lc 22,53). Môn đệ Đức Kitô được thông dự vào sự sáng của Thiên Chúa, như
Môsê khi xuống núi có mang trên mặt phản ánh vẻ uy hùng của Thiên Chúa (Xh
34,35). Không thể có chuyện Kitô hữu đi qua mà không ai biết; không ai có thể
dửng dưng trước ánh huy hoàng thiêng liêng mà Kitô hữu đang tỏa ra. Giống như
ánh sáng, Kitô hữu đi vào những nơi sâu thẳm nhất và kín ẩn nhất của trái tim
con người và đưa ra ánh sáng những lỗ hổng mà ta gặp trong đó.
Lời khẳng định được minh giải bằng hai hình ảnh (c. 15). “Thành
xây trên núi” có thể gợi ý đến Giêrusalem thiên sai, là điểm thu hút tất cả các
dân tộc (x. Is 2,2-5; 60,1-2.19-20). Các Kitô hữu tháp vào trong thế gian như một nguồn ánh sáng từ đó
mọi người có thể nhận được sự nâng đỡ và định hướng. “Thành xây trên núi” nêu
bật tính khả thị (thấy được), điểm quy
chiếu là chính tư cách của Họi Thánh Đức Kitô cho tất cả mọi người. Hình ảnh
này được nhắc lại bằng hình ảnh cái đèn đặt trên đế. Căn phòng trong đó gia
đình và bạn bè quy tụ lại trở nên sinh động nhờ ánh sáng của đèn. Hai hình ảnh
này cũng có thể được áp dụng cho từng người môn đệ. Do ơn gọi, người môn đệ
phải thông chia ánh sáng cho người khác. Họ không được thiếu ánh sáng, và càng
không được thiếu trách nhiệm vì không tạo được một ảnh hưởng tốt nào
trong cộng đoàn. Ánh sáng đây không phải là ánh sáng của các lời nói, cũng
chẳng phải là ánh sáng của chân lý lý
thuyết, nhưng là ánh sáng của “các việc tốt”, như Đức Giêsu đã đề cập đến
(4,23-25) và đã làm (5,3-11) và sẽ còn nhắc đến (7,23; 25,31-46) trong các diễn
từ của Người.
Khi đó người ta nhận ra
rằng những ân huệ người môn đệ đang có phát xuất từ Thiên Chúa; họ sẽ chúc tụng
ngợi khen Ngài. Điều này không có nghĩa là Thiên Chúa đòi hỏi con người hành
động để tán dương Ngài, khi mà ta thấy là hoạt động cứu độ của Đức Kitô chứng
tỏ rằng mọi sự là nhắm mưu ích cho những con cái Thiên Chúa “tuyển chọn” (x. Mt
5,44-48).
+ Kết luận
Từ bản chất của nhiệm vụ được ký thác cho họ, các môn đệ
phải là như ánh sáng và muối cho người khác. Bởi vì nhiệm vụ của họ là thúc
bách và lôi cuốn, họ phải ở trước mặt người ta, chứ không tránh né. Bởi vì bổn
phận của họ là đưa đến một cái hoàn toàn mới, họ phải duy trì chân tính
của họ, chứ không được tự đồng hóa với môi trường của họ. Chính các “việc tốt”
giúp cho môn đệ sống đúng tư cách muối và ánh sáng.
Đời sống của các môn đệ
đi theo các huấn thị của Đức Giêsu được coi như là một nhiệm vụ lớn.
Không ai có thể thay thế họ được; họ phải chịu trách nhiệm về sự kiện trần gian
nhận được hương vị và trở thành chan hòa ánh sáng. Xuyên qua đời sống họ, họ
phải bày tỏ cách thức hiện hữu của Thiên Chúa, họ phải truyền thông niềm vui
của các đứa con với Chúa Cha và chinh phục loài người về cho gia đình Ngài.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Muối tăng thêm hương
vị; muối thấm vào thực phẩm để giữ cho khỏi hư thối. Muối hòa tan ra, và được
phân phối trong tất cả khối lương thực. Muối có mặt khắp nơi trong khối lượng
thực, nhưng muối vẫn là muối, thì mới giữ được giá trị và tính hữu hiệu của
mình. Giống như muối, các môn đệ Đức Giêsu phải hiện diện trong môi trường và
liên kết với môi trường. Nhưng họ phải cứ là muối, phải bảo toàn được cách cách
thức sống của Cha họ (5,48). Muối không phải là một viên ngọc, một nén
bạc phải được cất giữ hoặc đưa ra mà làm cho sinh lãi, nhưng là một chất
gia vị. Nó sinh tác dụng khi nó chấp nhận “tự hủy” đi, hòa tan vào thực phẩm.
Kitô hữu là muối cho đời, bởi vì người ấy không được kêu gọi đi vào một cuộc
sống tách biệt, xa rời những người khác, nhưng bởi vì người ấy biết tan biến
mình đi trong đại gia đình nhân loại để hỗ trợ bất cứ ai cần. Hình ảnh muối
chống lại mọi thứ tinh thần phân lập (separatism) kiểu Pharisêu và gợi đến dụ
ngôn men vui trong bột (13,23). Kitô hữu không những là người của những người
khác, mà còn được gọi sống với những người khác, theo chiều hướng của Đức Kitô
(bạn của người tội lỗi và thu thuế: 11,19).
2. Hình ảnh của ánh
sáng đi song song với hình ảnh muối, vì ánh sáng cũng ảnh hưởng trên cuộc sống
của con người. Không có ánh sáng, thì không thể có sự sống; mọi sự chìm vào
trong bóng tối và trở nên hỗn độn (x. St 1,1). Như thế, trách nhiệm của
người Kitô hữu là không thể lường được. Nếu sự dữ không lui đi, là vì ánh sáng
phải đánh đuổi sự dữ đi lại quá yếu hoặc tệ hại hơn nữa, lại tắt mất rồi!
3. Các môn đệ của Đức
Giêsu phải đói khát sự công chính, đói khát lối xử sự công chính (5,6), và đó
là mối quan tâm đầu tiên của họ. Cách xử sự này là hình thức căn bản qua đó họ
làm chứng về Thiên Chúa Cha. Xuyên qua lối xử sự của họ, các môn đệ phải đưa
loài người đến chỗ quan tâm, suy nghĩ và tự hỏi, sao cho cuối cùng loài người
cũng hòa với họ trong việc ca ngợi Thiên
Chúa. Vậy các môn đệ phải bắt chước cách xử sự của Chúa Cha. Chỉ như thế thì
qua lối sống của họ, bản chất của Chúa Cha mới được mạc khải ra và nhận biết.
Nhờ những người sống như là con của Ngài, Thiên Chúa muốn được nhìn nhận như là
Cha nhân lành và lôi kéo càng ngày càng
nhiều người đến với Ngài.
4. Các môn đệ Đức Giêsu
phải là một điểm quy chiếu và là ánh sáng, làm cho mỗi sự vật xuất hiện
ra trong bộ mặt thật của nó và trong giá trị thật của nó. Do đó, họ phải ở vào
một vị trí dễ thấy. Kitô hữu không được quên và càng không được cắt đứt
sự thông truyền các ân ban mình đang có cho kẻ khác. Họ không được chạy lung
tung để tìm người theo phe mình. Họ cũng không được rút lui vào tình trạng vô
danh hoặc náu mình vào trong đám đông. Chỉ khi họ có thể thấy được, chứ không
đi trốn hoặc đi ngụy trang, thì nhờ họ, Thiên Chúa mới có thể được nhận biết
như là Cha nhân lành. Chỉ có lòng nhân ái, lòng tốt, tình yêu, tinh thần phục
vụ mới có thể trở thành ánh sáng cho người khác.
5. Môn đệ Đức Kitô phải
là một ngọn đèn đặt trên đế để soi chiếu cho mọi người trong nhà. Ở vào
vị trí sao cho người ta thấy được mình thì hoàn toàn khác với việc tìm cách
khoe mình (x. 6,1-18) vì những động lực khác. Chúng ta phải cho thấy các việc
tốt đã làm không phải để được người ta khen ngợi (6,2), nhưng để cho nhờ ta
trung thành sống bản tính con Thiên Chúa trước mắt người khác, Thiên Chúa được
khen ngợi (5,16).
Lm FX Vũ Phan Long, ofm