yêu thương tha nhân không giỚi hẠn
(Mátthêu 5,38-48 – CN
VII TN - A)
1.- Ngữ
cảnh
Câu Mt 5,17 đưa
vào một vấn đề: tương quan giữa Luật Môsê và các Ngôn sứ, tức trọng tâm của
niềm tin Cựu Ước, và giáo huấn của Đức Giêsu, trọng tâm của niềm tin Kitô giáo.
Vấn đề được minh nhiên cứu xét trong phân đoạn 5,20-48 là bản văn nói về sáu
“cặp đối nghĩa”. Phân đoạn này cho thấy tính cách mới mẻ trong giáo huấn của Đức
Giêsu so với chính các bản văn Cựu Ước.
Bản văn chúng ta đọc hôm nay đề cập đến hai cặp đối nghĩa
cuối cùng: chớ trả thù (5,38-42) và phải yêu kẻ thù (cc. 43-48).
2.- Bố
cục
Bản văn có thể chia thành hai phần:
1) Chớ trả thù (5,38-42);
2) Phải yêu kẻ thù (5,43-48).
3.- Vài
điểm chú giải
- mắt đền mắt, răng đền răng (38): Đây là luật hình
sự dựa trên nguyên tắc đối trọng: ai đã gây thiệt hại, thì phải sửa chữa thiệt
hại đã gây ra. Xem Xh 21,23-25; Lv 24,19-20; Đnl 19,21; Bộ luật Hammourabi (2000 năm tCN).
- đừng chống cự người ác (39): Lời này được ngỏ với kẻ bị xúc
phạm để họ biết xử sự đúng tư cách là môn đệ Chúa Kitô, chứ không phải là nhằm
hủy bỏ nền luật pháp hiện hành (thánh Phaolô đã vận dụng luật pháp này: x. Cv 25,11). Chính cách xử sự này cho thấy
rằng các bộ luật hình sự chỉ có tính cách nhất thời, giới hạn.
- đi một dặm (41): Có lẽ đây là một dịch vụ. Các lính tráng
và quan chức có thể bắt người qua đường vác một gánh nặng (trường hợp Simôn
Kyrênê) hoặc đi với họ như là con tin hoặc như người dẫn đường.
- Ai muốn vay mượn (42): Bên Paléttina, “cho vay thường tương
đương với bố thí (x. Hn 29,1). Người
- hãy yêu kẻ thù (44): Động từ agapaô nói đến một tình yêu hy sinh cho người kia. Tình philia (phileô) là một tương quan đặc biệt, một sự trao đổi, một sự đồng
thuận hỗ tương dựa trên các phẩm chất tự nhiên, sự để ý đến nhau, sự đồng cảm.
Còn eraô (eros) là tình yêu phàm tục.
- nên hoàn thiện (48): Teleios
(Hp. tamim) có nghĩa là đã đạt tới
đích (telos), tức là tới mức thể hiện
tối đa; như thế là không có lỗ hổng, khiếm khuyết, giới hạn.
4.- Ý
nghĩa của bản văn
* Chớ trả thù (38-42)
Luật báo phục (“mắt đền mắt, răng đền răng”) hình thái triệt
để nhất và cũng sơ khai nhất của luật hình sự; luật báo phục chính là việc hợp
pháp hóa sự công bình riêng tư. Thật ra, vào thời Đức Giêsu, người ta không còn
áp dụng luật này cách cứng ngắc nữa, vì đã tạo ra những hình thức khác để nộp
phạt (đóng tiền…). Tuy nhiên, Đức Giêsu đã lấy luật báo phục làm điểm xuất phát
để giáo huấn: với năm ví dụ cụ thể (cc. 39b-42), Người mời gọi các thính giả đi
xa hơn thái độ cam chịu thụ động: không những không đáp lại sự dữ bằng sự dữ,
nhưng còn phải đáp lại sự dữ bàng sự lành, sự thiện. Bằng các ví dụ đó, Đức
Giêsu cho các môn đệ hiểu rằng Thiên Chúa Cha chờ đợi họ sẵn sàng cho đi trọn
vẹn, cho đến mức tối đa, nếu hoàn cảnh đòi hỏi. Do đó, không phải là cứ áp dụng
sát mặt chữ những ví dụ của Đức Giêsu, nhưng là hiểu cho đúng để áp dụng cho
đúng. Vấn đề không phải chỉ là đưa má kia cho người ta tát tiếp, nhưng là cống
hiến một không gian để kẻ gian ác có thể suy nghĩ về các lầm lạc của họ.
Chịu vả vào cả hai má, nhường cả áo ngoài cho kẻ đòi áo
trong, đi hai dặm với một người bắt anh đi một dặm, anh muốn vay mượn, thì hãy
cho vay mượn, tất cả đều là những hành vi diễn tả thái độ Kitô hữu, nhưng không
đúng ý Chúa Kitô nếu người bị khổ không chịu khổ vì tình yêu đối với những kẻ
gây bất công cho mình.
* Phải yêu kẻ thù
(43-48)
Với cặp đối nghĩa cuối
cùng này, Đức Giêsu cho hiểu rằng sự hoàn thiện của Chúa Cha, đó là tình yêu.
Sách Lêvi (19,18) buộc người Híp-ri
yêu thương người re’a (HL ho plêsios, người thân cận), là người
cùng sống giao ước với Đức Chúa, những thành viên của cộng đồng dân Thiên Chúa;
người ngoại quốc (gêr) mà đi vào cộng
đồng tôn giáo với người Israel thì cũng được hưởng tình yêu này. Sự thù ghét kẻ
thù không được quy định trong Lề Luật, nhất là với một công thức sống sượng như
thế. Sự thù ghét này phát sinh như một hậu quả của luật yêu thương người thân
cận.
Kẻ thù đầu tiên được kể
ra, đó là “những kẻ ngược đãi”. Đây hẳn là những kẻ thù chống lại niềm tin của
ta, chống lại lối sống Kitô giáo. Yêu kẻ thù không có nghĩa là trở thành bạn
hữu của họ, nhưng là tỏ ra thông cảm, nhân ái, và sẵn sàng trợ giúp. Đức Giêsu
đã yêu thương mọi người, nhưng không phải không có những sự ưu ái đối với một
số người, và cũng không ngại nói lên lời răn đe và trách mắng các đối thủ. Tình
yêu đối với kẻ khác được diễn tả ra bằng hai ví dụ mẫu: cầu nguyện cho kẻ thù
và “chào hỏi” mọi người không phân biệt. (x. Lc 23,34; Cv 7,60). Người
Kitô hữu phải mở rộng vòng người thân cận ra bên ngoài những gì Luật dạy và
những ngươi thu thuế (telônai) và dân
ngoại (ethnikoi) vẫn thực hành. Người
plêsios không chỉ là “những người
công chính”, “những người tốt” (c. 45), “những ai yêu thương anh em” (c. 46),
“các anh em” (c. 47), nhưng tất cả mọi người, đặc biệt các “kẻ thù (cc. 43-44),
“những kẻ ngược đãi anh em” (c. 44), “những người xấu” và “những người bất
chính” (c. 45).
Đức Giêsu đưa điều răn yêu thương về lại với ý hướng
của Đấng Lập pháp đầu tiên. Tình yêu
buộc phải cung cấp cho mọi người những gì phải làm: sự tín nhiệm, sự trân
trọng, sự trợ giúp. Cũng như trong những cặp đối nghĩa khác, Đức Giêsu không
chỉ cho một lời khuyên, nhưng ban một lệnh mới cho các tương quan giữa con
người. Người môn đệ chỉ trở thành con của Chúa Cha trong mức độ người ấy mô
phỏng lối xử sự của mình theo cách ứng xử của Chúa Cha, nghĩa là yêu thương
người khác, kể cả kẻ thù, y như Chúa Cha vẫn yêu thương họ. Khi yêu thương mọi
người không phân biệt kỳ thị, người Kitô hữu chứng tỏ cách chắc chắn và trung
thực nhất dây quan hệ họ hàng với Thiên Chúa. Câu “anh em hãy nên hoàn thiện,
như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5,48) làm vọng lại lời mời gọi của sách Đnl (18,13): “Anh (em) phải sống trọn hảo với Đức Chúa, Thiên Chúa
của anh (em)” và của sách Lêvi
(19,2): “Hãy nói với toàn thể cộng đồng con cái Ít-ra-en và bảo chúng : Các
ngươi phải thánh thiện, vì Ta, Đức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi, Ta là Đấng
Thánh”.
+ Kết luận
Luật Kitô hữu là luật yêu thương. Khi người môn đệ Chúa Kitô
chấp nhận những từ bỏ do luật này đòi hỏi, luật yêu thương này chứng tỏ được
tất cả trọng lượng của nó. Nếu các nguyên tắc được công bố ở đây đi vào trong
xã hội, xã hội này hẳn là sẽ không bị tiêu vong, nhưng sẽ thấy các tương quan
giữa con người được đổi mới, bởi vì các bất công và bạo động sẽ bị dập tắt dễ
dàng nhờ sống theo luật này hơn là do sợ các biện pháp chế tài hình sự. Thật ra
đây chính là lối sống của Đức Giêsu. Đức Giêsu đã chết vì không nhường bước trước
các áp lực của sự thận trọng hoặc của
lương tri. Khi làm như thế, Người không đảo lộn trật tự xã hội, nhưng Người
củng cố các tương quan giữa con người với con người. Bắt chước Thiên Chúa, và
cũng là bắt chước Đức Giêsu, là quy tắc duy nhất của lối cư xử của Kitô hữu, là
con đường duy nhất để vượt qua nền luân lý Pharisêu.
5.- Gợi ý
suy niệm
1. Qua giáo huấn của Người,
Đức Giêsu giúp chúng ta nhìn vào đời sống Kitô hữu giữa lòng xã hội. Như bất cứ
ai, người Kitô hữu cũng có khi là đối tượng của những bất công, của bạo động;
họ bị xử thô bạo, hành hạ, đánh đập, bỏ tù, xử bất công. Đức Giêsu đề nghị không
phải là một cách thức xử sự mang tính tự vệ hoặc chỉ là bất bạo động, nhưng còn
là chấp nhận bị tước đoạt vô điều kiện.
2. Khi chịu xử bất
công, người môn đệ Chúa Kitô vác thập giá cho những kẻ đã chuẩn bị thập giá cho
mình. Không phải là những hành vi thể lý là đáng kể, nhưng là những động lực
khiến người ta chấp nhận, không vì yếu đuối hoặc hèn nhát, nhưng là để khỏi gây
thiệt hại cho người anh em hư hỏng, lạc đường.
3. Đức Giêsu không đề
nghị một trật tự mới cho các tương quan xã hội, nhưng một nguyên tắc sống khổ
chế có khả năng minh họa và giải thích trước thái độ của Người đối với người
Pharisêu và các kẻ bách hại Người nói chung.
4. Luật Tình yêu kẻ thù
đảo lộn các cách xử sự theo quy ước của
loài người. Thường yêu thương là quan tâm đến những ai có cùng kiểu nhìn như
mình, trình độ văn hóa như mình, địa vị xã hội như mình. Sứ điệp Tin Mừng vượt
quá các giới hạn ấy. Đức ái Kitô giáo không “cào bằng” các con người, nhưng tỏ
ra kính trọng họ, thậm chí cả các giới hạn và khiếm khuyết của họ. Lòng nhân ái
của Kitô hữu là thông dự vào tình yêu của chính Thiên Chúa.
5. Từ ngữ “hoàn thiện”
in vào trong lối hành xử của Kitô hữu một sức năng động. “Hoàn thiện” là vượt
qua mọi thiếu sót, như thế là không bao giờ thực hiện được vĩnh viễn, nhưng cứ
tiến tới mãi, và nếu mức độ là sự hoàn thiện của Thiên Chúa, thì ta chẳng bao
giờ đạt tới được mức thực hiện hoàn toàn. Nên hoàn thiện như Chúa Cha, trong cụ
thể, là bắt chước Đức Kitô trong thái độ quy phục trọn vẹn, anh hùng, thánh ý Thiên
Chúa, và trong sự tận tình sống cho anh chị em.
Lm FX Vũ Phan Long, ofm