CHÚA NHẬT 29 THƯỜNG NIÊN A
Is 45,1.4-6; 1 Tx 1,1-5b; Mt
22,15-21
“TỐT ĐỜI ĐẸP ĐẠO”
I. HỌC LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: Mt 22,15-21
(15) Bấy giờ những người Pha-ri-sêu đi bàn bạc với nhau, tìm
cách làm cho Đức Giê-su phải lỡ lời mắc bẫy. (16) Họ sai các môn đệ của họ cùng
đi với những người phe Hê-rô-đê, đến nói với Đức Giê-su rằng: “Thưa Thầy, chúng
tôi biết Thầy là người chân thật và cứ sự thật mà dạy đường lối Thiên Chúa. Thầy cũng chẳng vị nể ai, vì Thầy không cứ bề ngoài mà đánh giá
người ta. (17) Vậy xin Thầy cho biết ý kiến: có được phép nộp thuế cho Xê-da hay không ?”
(18) Nhưng Đức Giê-su biết họ có ác ý, nên Người nói: “Tại sao các người lại
thử tôi, hỡi những kẻ giả hình ! (19) Đưa đồng tiền
nộp thuế cho tôi coi !” Họ liền đưa
cho Người một đồng bạc. (20) Và Người hỏi họ: “Hình và danh hiệu này là
của ai đây ?” (21) Họ đáp: “Của Xê-da”. Bấy giờ, Người
bảo họ: “Thế thì của Xê-da, trả về Xê-da ; của Thiên
Chúa, trả về Thiên Chúa”.
2. Ý CHÍNH:
Một số người Pha-ri-sêu liên kết với nhóm Hê-rô-đê tìm cách gài bẫy
Đức Giê-su, để có cớ tố cáo chống lại Người. Nhưng cuối cùng Người không bị mắc bẫy của họ, mà còn giúp họ ý
thức bổn phận sống “tốt đạo đẹp đời”, vừa tôn trọng thế quyền lại vừa tôn trọng
thần quyền bằng nguyên tắc như sau: “Của Xê-da trả về Xê-da, Của Thiên Chúa,
trả về Thiên Chúa”.
3. CHÚ THÍCH:
- C 15: + Bấy giờ những người
Pha-ri-sêu đi bàn bạc với nhau, tìm cách làm cho Đức Giê-su phải lỡ lời mắc
bẫy: Những người Pha-ri-sêu được dân Do Thái đánh giá là có lòng
ái quốc, chống lại đế quốc Rô-ma bấy giờ đang cai trị nước Do Thái. Các người
Pha-ri-sêu rất tôn trọng Thiên Chúa, tuân giữ tỉ mỉ từng điều khoản trong bộ
luật Mô-sê, nhất là luật về ngày hưu lễ (Sa-bát) và việc thanh tẩy, nhưng họ
lại không tin Đức Giê-su là Đấng Thiên Sai (Mê-si-a). Vì Đức
Giê-su nhiều lần quở trách thói giả đạo đức và kiêu căng, nên họ luôn chống đối
Người. Ở đây họ bàn mưu tính kế để tố cáo Người về lời
nói.
- C 16: + Những người phe Hê-rô-đê: Đây là một đảng
phái chính trị, là tay chân ủng hộ vua Hê-rô-đê và
thân với chính quyền Rô-ma. Họ theo văn hóa Hy Lạp và
không quan tâm đến luật Mô-sê. Có thể nói phe này đối lập với
nhóm Pha-ri-sêu cả về chính trị lẫn tôn giáo. Người Pha-ri-sêu cùng với
những người phe Hê-rô-đê: Hai nhóm người đối nghịch nhau giờ đây lại liên kết
với nhau để đối phó với Đức Giê-su là kẻ thù chung của họ, như Tin Mừng Lu-ca
viết: “Họ rình rập và sai một số người giả bộ làm người công chính, đến dò la,
mong bắt quả tang Đức Giê-su lỡ lời, để nộp Người cho nhà chức trách có thẩm quyền
là tổng trấn” (Lc 20,20). + Thưa Thầy, chúng tôi biết Thầy là người
chân thật: Đây là một lời khen giả dối với mục đích tránh bị Đức Giê-su
nghi ngờ về ý đồ đen tối của họ. Họ chào hỏi Người như là một
ông Thầy (Rab-bi), khen Người là người trung thành với lề luật Thiên Chúa và
không bị người đời chi phối. Đây là hai đặc tính tiêu biểu của người
công chính được Thánh Kinh nhắc đến (x. Cv 10,34 ; Gc
2,1-9 ; Cl 3,25).
- C 17: + Xin Thầy cho ý kiến: Họ xin Đức Giê-su
cho ý kiến để giải quyết một vấn đề phức tạp mà nhóm Pha-ri-sêu và nhóm
Hê-rô-đê bất đồng ý kiến với nhau. + Xê-da: Tước hiệu ám chỉ hoàng đế
đang trị vì đế quốc Rô-ma. Trong Tân Ước, tước hiệu Xê-da ám chỉ 3 vị hoàng đế
Rô-ma: Một là AU-GÚT-TÔ: cai trị từ năm 29 trước Công nguyên đến năm 14 sau
Công Nguyên, vào thời điểm Đức Giê-su giáng sinh tại Bê-lem (x. Lc 2,1). Hai là
TI-BÊ-RI-Ô: Cai trị từ năm 14 đến năm 37 sau CN, trong thời gian Đức Giê-su
giảng đạo công khai. Tin Mừng nhắc đến tước hiệu này 3 lần: Khi Đức Giê-su chịu
phép rửa (x. Lc 3,1), khi Người bị gài bẫy về việc nộp
thuế (x. Mt 22,17) và khi Người bị dân Do Thái đòi kết án tử hình thập giá (x.
Ga 19,12). Ba là NÊ-RÔNG: cai trị từ năm 54 đến năm 68
sau CN. Sách Công Vụ dùng tước hiệu này để chỉ hoàng đế Nê-rông, khi ông
Phao-lô gặp khó khăn với người Do Thái tại Thê-xa-lô-ni-ca (x. Cv 17,7), và khi ông tự biện hộ rồi kháng án lên hoàng đế Xê-da
(x. Cv 25,10 ; 28,19). + Nộp thuế: Người Do Thái hằng năm
đều phải nộp hai thứ thuế: Một là thuế
tôn giáo hay thuế Đền Thờ (x. Mt 17,24). Hai là thuế
nhà nước: Ngoài nhiều loại thuế khác, mỗi năm người Do Thái trong hạn tuổi từ
14 đến 65, đều phải nộp thuế thân cho hoàng đế Rô-ma. Người
Do Thái coi việc nộp thuế này là một sự ô nhục, biểu lộ thái độ thần phục hoàng
đế Rô-ma. Vì thế Nhóm Quá khích có tinh thần ái quốc đã cấm thành viên
của mình đóng thuế cho ngoại bang. + Có được phép nộp thuế cho Xê-da hay không
?: Câu này có nghĩa là người Do Thái theo lương tâm có được nộp thuế
cho hoàng đế Xê-da vừa là dân ngoại, vừa là vua của đế quốc đang thống trị dân
Do Thái hay không ? Như vậy vấn đề nộp thuế ở đây được đặt
trên bình diện chính trị. Đây chính là một cái bẫy mà theo thâm ý của họ
thì Đức Giê-su trả lời đằng nào cũng không ổn: Nếu bảo phải nộp thuế, thì nhóm
Pha-ri-sêu sẽ tố cáo Người là kẻ phản quốc và chắc chắn không phải là Đấng
Thiên Sai (Mê-si-a) mà dân Do Thái đang chờ mong mau đến, để giải phóng dân tộc
khỏi ách thống trị của dân ngoại. Ngược lại, nếu Người bảo không phải nộp thuế,
thì phái Hê-rô-đê sẽ dựa vào đó tố cáo với tổng trấn Rô-ma rằng Đức Giê-su là
kẻ phản động, đang âm mưu chống lại chính quyền Rô-ma, cụ thể là xúi giục dân
không nộp thuế, để tổng trấn ra lệnh bắt bớ giết hại Người.
- C 18: + Đức Giê-su biết họ có ác ý: Những kẻ chất vấn Đức Giê-su đã
tỏ ra giả dối trong hai chuyện: Một là họ làm ra vẻ băn khoăn về một vấn đề
lương tâm, đang khi thâm ý của họ là muốn gài bẫy làm hại Đức Giê-su. Hai là
trong cuộc sống đời thường, họ vẫn phải sử dụng đồng tiền của Xê-da để giao
dịch mua bán, tức là họ đã mặc nhiên chấp nhận quyền cai
trị của hoàng đế Rô-ma rồi. Thế nhưng họ vẫn làm ra vẻ như
không chấp nhận quyền ấy. + Tại sao các người lại thử tôi ?: Qua câu này, Đức Giê-su cho thấy người đã
biết rõ ý đồ đen tối của bọn người này là muốn giăng bẫy để làm hại Người. + Hỡi
những kẻ giả hình: Giả hình là không trung thực, là giả bộ, thái độ và
lời nói bên ngoài trái ý với ý nghĩ trong thâm tâm. Họ đặt câu hỏi không phải
vì muốn biết điều đúng để theo, nhưng là muốn đưa Người vào thế “tiến thoái
lưỡng nan”, để hoặc tố cáo làm mất uy tín của Người trước dân chúng, hoặc tố
cáo Người với nhà cầm quyền Rô-ma để mượn tay họ giết hại Người.
- C 19: + Đưa đồng tiền nộp thuế cho tôi coi: Đức Giê-su đòi họ đưa ra
đồng tiền nộp thuế là tiền của Rô-ma đang lưu hành ngoài xã hội, trên đó có khắc
hình và danh hiệu của Hoàng đế Xê-da. Mười điều răn trong Luật Mô-sê có khoản
như sau: “Người không được tạc tượng, vẽ hình bất cứ vật gì ở trên trời cao,
cũng như dưới đất thấp, hoặc ở trong nước phía dưới mặt đất, để mà thờ” (Xh 20,4). Trên danh hiệu hoàng đế Rô-ma có chữ
thần linh, vì hoàng đế tự coi mình là thần, nên người Do Thái đạo đức không
muốn sử dụng đồng tiền này. Dân Do Thái trước khi nộp thuế Đền Thờ hay
ủng hộ việc trùng tu Đền Thờ, phải đổi từ tiền Rô-ma dùng ngoài xã hội sang
loại tiền riêng dùng trong Đền Thờ tại những bàn đổi tiền (x. Mt 21, 12). + Họ
đưa cho Người một đồng bạc: Người Do Thái có lòng yêu nước chân chính
sẽ không mang theo đồng tiền của đế quốc Rô-ma. Ở đây
khi lấy từ túi áo một đồng tiền để đưa cho Đức Giê-su, tức là những người này
đã mặc nhiên thừa nhận quyền cai trị của hoàng đế Xê-da.
– C 20-21: Hình và danh hiệu này là của ai đây ?: Đức Giê-su đã quá biết hình và danh hiệu khắc
trên đồng tiền là của Xê-da. Nhưng Người muốn chính miệng họ
phải nói ra điều này, trước khi Người trả lời thắc mắc của họ. + Thế
thì của Xê-da, trả về Xê-da: Một khi họ nhận quyền của hoàng đế trên
dân tộc mình, thì việc nộp thuế cho hoàng đế Rô-ma cũng là lẽ đương nhiên (x.
Rm 13,5-7). Vì mọi quyền hành đều xuất phát từ Thiên
Chúa, như lời Đức Giê-su nói với tổng trấn Phi-la-tô: “Ngài không có quyền gì
đối với tôi, nếu Trời chẳng ban cho ngài” (Ga 19,11), hoặc như thánh Phao-lô
viết: “Mỗi người phải phục tùng chính quyền, vì không có quyền bính nào mà
không bởi Thiên Chúa, và những quyền bính hiện hữu là do Thiên Chúa thiết lập”
(Rm 13,1-4). Thánh Phê-rô cũng dạy tương tự (x. 1 Pr 2,13-14).
Nói cách khác, khi người ta tùng phục quyền bính chính đáng của thế quyền, thì
cũng là làm theo thánh ý của Thiên Chúa. + Của
Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa: Nhưng khi thế quyền chống lại Thiên
Chúa, thì các tín hữu phải chọn đứng về Thiên Chúa, vì Người mới là nguồn gốc
mọi quyền bính của loài người, như Tông đồ Phê-rô đã trả lời trước Thượng Hội
Đồng Do Thái, khi bị họ ngăn cấm rao giảng danh Đức Giê-su: “Phải vâng lời
Thiên Chúa hơn là vâng lời người phàm” (Cv 5,29). Tóm
lại, qua câu trên, Đức Giê-su muốn dạy rằng: Nộp thuế thì cứ nộp, vì dù muốn dù
không thì ta cũng đang sống dưới quyền cai trị của một
đế quốc, thể hiện qua việc phải sử dụng đồng tiền của đế quốc. Nhưng chỉ được tôn thờ một Thiên Chúa độc nhất, và ngoài Người ra
không còn thần linh nào khác. Như vậy theo lời
Đức Giê-su, người ta phải chu toàn cả hai bổn phận: Vừa tôn trọng quyền lợi của
hoàng đế, lại vừa tôn trọng quyền lợi của Thiên Chúa.
4. CÂU HỎI: 1) Tại sao người
Pha-ri-sêu chống đối Đức Giê-su ? 2) Hai nhóm
Pha-ri-sêu va Hê-rô-đê đã làm gì để liên kết với nhau chống lại Đức Giê-su ? 3) Trong Tân Ước, Xê-da là tước hiệu ám chỉ ba vị hòang
đế nào của đế quốc Rô-ma ? 4) Người Do thái mỗi năm
phải nộp những lọai thuế nào ? Ho thường bất đồng ý
kiến với nhau về việc nộp loại thuế nào cho Rô-ma ?
Tại sao ? 5) Những người Pha-ri-sêu va phái Hê-rô-đê đã
gài bẫy Đức Giê-su ra sao về việc nộp thuê ? 6) Tại
sao Đức Giê-su lại gọi bọn người này là những kẻ giả hình ?
7) Hãy cho biết hai lọai đồng tiền thời Đức Giê-su khác nhau như thế nào ? Đức Giê-su đã làm gì để hóa giải cái bẫy của những kẻ
ác ý kia ? 8) Qua câu “của Xê-da trả cho Xê-da, Của
Thiên Chúa trả cho Thiên Chúa”, Đức Giê-su đã phân định thế nào về bổn phận của
các tín hữu đối với thế quyền và với Thiên Chúa ?
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: “Của Xê-da, trả về Xê-da, của Thiên Chúa, trả về Thiên
Chúa” (Mt 22,21).
2. CÂU CHUYỆN:
1) SỰ LỰA CHỌN CỦA THÁNH TỬ ĐẠO TÔ-MÁT MO-RƠ (THOMAS MORE)
Vua HĂNG-RI Thứ Tám
(Henry VIII) Nước Anh, muốn Tòa thánh hủy bỏ cuộc hôn nhân chính thức trước đó
để tái hôn với cô En-nơ Bô-lơn (Anna Bolen). Nhưng vì không hội đủ lý do tiêu
hôn, nên Tòa Thánh đã từ chối giải quyết yêu cầu của vua. Nghe
vậy, HĂNG-RI tức giận và tuyên bố thành lập một giáo hội Anh quốc ly khai khỏi
Công Giáo. Sau đó, ông tự huỷ bỏ cuộc hôn nhân trước để tái kết hôn theo ý ông muốn. Ông tự phong là giáo chủ của Anh giáo, và
ra lệnh cho các chức sắc tôn giáo như hồng Y, Giám Mục và các Quan chức trong
triều, các vị tướng lãnh, quý tộc và các thành viên trong nghị viện Anh phải ký
tên vào một văn bản công nhận quyền tái hôn của ông, và gia nhập Anh giáo ly
khai. Nhiều người phản đối, nhưng vì sợ bị chém đầu, nên đành
ký tên vào bản văn ấy. Bấy giờ Tô-mát Mo-rơ
đang là một quan chức cao cấp của nhà vua. Ông đã bị giằng co giữa hai bổn
phận: một là của người tín hữu phải trung thành với Thiên Chúa và như thế sẽ bị
kết tội phản nghịch và bị tử hình. Hai là bổn phận của một bề
tôi phải trung thành với nhà vua và được hứa sẽ cho làm Tổng Giám Mục để hưởng
nhiều bổng lộc và vinh hoa phú quý. Nhưng Tô-mát Mo-rơ
đã chọn trung thành với Thiên Chúa. Sau đó Ngài đã bị
bắt giam trong một nhà ngục ở Luân Đôn. Trong phiên tòa xét xử Ngài, sau
khi nghe vị quan tòa tuyên án tử hình về tội phản
nghịch dám chống lại nhà vua,
Còn bạn, khi gặp hoàn cảnh phải chọn một trong hai: Thiên Chúa hay
tiền bạc, địa vị con Thiên Chúa hay chức quyền trần gian. Trong trường hợp đó,
bạn sẽ chọn theo điều nào: Chọn theo Chúa và chấp nhận bị coi là kẻ khờ dại và
bị loại trừ, hay chọn theo những kẻ gian ác tham nhũng để được an thân và được
thăng quan tiến chức ?
2) ĐỒNG BẠC RÔ-MA THỜI ĐỨC GIÊ-SU:
Khi đến viện bảo tàng Men-sét-tơ (
3. SUY NIỆM:
1) HAI KHUYNH HƯỚNG
CHÍNH TRỊ ĐỐI LẬP:
Nước Do Thái thời Đức
Giêsu đang bị đế quốc Rô-ma cai trị. Dân Do Thái phải đóng thuế cho đế quốc. Trong nước Do thái
lúc đó có hai khuynh hướng chính trị đối lập thù nghịch nhau:
– Đảng Hê-rốt thân
chính quyền: Gồm những đảng viên của vua Hê-rô-đê, chủ trương theo đế quốc để bảo vệ ngai vàng nhà vua và để được hưởng các
đặc quyền đặc lợi do đế quốc ban cho. Họ buộc dân chúng phải đóng thuế cho ngoại
bang Rô-ma. Trong tôn giáo phái Sa-đốc gồm hầu hết các tư tế
phục vụ Đền thờ Giê-ru-sa-lem đều có lập trường thân chính quyền để được yên
thân lo việc tế tự.
–
Đảng Zê-lốt chống chính quyền: Gồm những người yêu nước và bất phục đế quốc Rô-ma. Họ thường
tổ chức nổi dậy chống lại quân đội Rô-ma và kêu gọi dân chúng không nộp thuế
cho Rô-ma. Trong tôn giáo có phái Pha-ri-sêu cũng gọi
là Biệt Phái thuộc phe này.
Xã hội Do thái bị phân
hóa thành hai phe: Phe thân chính quyền thì bị dân chúng oán ghét tẩy chay. Còn
Phe chống chính quyền thì được dân chúng kính nể, nhưng lại bị chính quyền
Rô-ma theo dõi và gây khó dễ. Trong
bối cảnh này, chủ trương nộp thuế hay không nộp là một vấn đề nhạy cảm đối với
dân chúng Do thái.
2) CÁI BẪY ĐƯỢC GIƯƠNG RA:
- Thời
Đức Giê-su ra giảng đạo : Dân Do thái ngoài bổn phận nộp thuế Đền Thờ, còn
phải chịu ba loại thuế khác nộp cho chính quyền Rô-ma là: thuế ruồng đất; thuế
lợi tức và thuế thân.
- Luật
thuế thân của Rô-ma qui định công dân cả nam lẫn nữ tuổi từ 14 đến 65 đều phải
đóng thuế thân hàng năm tương đương với một ngày công nhật của một thợ.
- “Có được phép nộp thuế cho Xê-da hay không ?”:
Đây là câu hỏi hóc búa do hai đảng đối lập nhau về chính trị nhưng lại đồng
quan điểm chống đối Đức Giê-su là đảng Hê-rô-đê và Biệt Phái. Hai nhóm này cùng
nhau đến gặp và đặt ra để đưa Đức Giê-su vào thế bí: Người trả lời theo hướng
nào cũng đều bất lợi cho Người: Nếu Đức Giê-su trả lời phải nộp thuế cho đế
quốc, thì phái Pha-ri-sêu vốn có lòng ái quốc sẽ rêu rao Đức Giê-su chỉ là hạng
bán nước cầu vinh, là tay sai của ngoại bang để bóc lột đồng bào. Như vậy dân
Do Thái sẽ không còn tin Người là Đấng Thiên Sai mà họ đang trông mong để giải
phóng dân Do thái khỏi ách thống trị của ngoại bang Ro-ma. Còn nếu Đức Giê-su trả
lời không được nộp thuế cho Xê-da, thì đảng Hê-rô-đê thân chính quyền sẽ chụp
mũ cho Người là phản động, xách động quần chúng đừng nộp thuế cho Rô-ma, để quan
Tổng trấn Rô-ma sẽ có cớ bắt bớ kết án phản nghich cho Người.
3) CÂU TRẢ LỜI CỦA ĐỨC GIÊ-SU:
Trước hết Đức Giê-su đã vạch trần âm mưu đen tối của họ khi nói:
“Tại sao các người lại thử tôi, hỡi những kẻ giả hình !”
Rồi Người đòi họ đưa ra đồng tiền nộp thuế là loại tiền nào.
Đây là đồng tiền bằng bạc, trên có khắc hình và tên hiệu của
Xê-da tức là Hoàng đế Rô-ma. Khi được Đức Giê-su hỏi hình và tên hiệu là
của ai, họ thưa: “Của Xê-da”. Dĩ nhiên, Đức Giê-su đã biết rõ hình đó là của Xê-da,
nhưng Người muốn chính miệng họ nói ra điều này, để cho thấy: Một khi họ đã
chấp nhận sử dụng đồng tiền của Rô-ma, tức là họ đã mặc nhiên công nhận quyền
cai trị của ngoại bang và đã coi Xê-da là hoàng đế của mình rồi. Từ đó, Đức
Giê-su tuyên bố hai nguyên tắc quan trọng về cách ứng xử trong lãnh vực chính
trị nhậy cảm như sau:
- “Của Xê-da trả về cho Xê-da”: nghĩa là phải trả cho Hoàng đế
Rô-ma đồng tiền mang hình và danh hiệu của ông ta. Khi đã chấp nhận quyền cai
trị của Xê-da, thì đương nhiên cũng phải chu toàn bổn phận đóng thuế cho Xê-da ! Đây là đáp án cho câu hỏi “Có được phép nộp thuế cho
Xê-da hay không ?”.
- “Của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa” (Mt 22,21):
Tuy bọn người này không hỏi về bổn phận đối với Thiên Chúa, nhưng Đức Giê-su
vẫn đề cập đến điều này: Phải trả lại cho Thiên Chúa những gì mang dấu ấn của Người.
Đây là một bổn phận quan trọng mà những ai muốn trở nên con thảo của Thiên Chúa
không thể bỏ qua được.
4) CỦA XÊ-DA, TRẢ VỀ XÊ-DA, CỦA
THIÊN CHÚA, TRẢ VỀ THIÊN CHÚA:
- Phục tùng chính quyền: Cần phải xác định rằng: Trước khi được chịu phép rửa tội để trở nên con
Thiên Chúa và con Hội thánh, các tín hữu đã là công dân của nước trần thế khi
cha mẹ làm giấy khai sinh cho ta. Giữa người công dân trần thế và công dân Nước
Trời không có khác biệt mâu thuẫn với nhau, và « Mọi người dân đều bình
đẳng trước pháp luật ». Mọi người đều có bổn phận và quyền lợi như nhau trong
đất nước của mình đã được Hiến Pháp và luật pháp quy
định, như quyền: tự do cư trú, tự do tín ngưỡng, quyền được bảo vệ tài sản tính
mạng, quyền ứng cử và bầu cử… Nhưng bên cạnh đó, chúng ta cũng có bổn phận phải
thi hành nghĩa vụ công dân như: đóng thuế, bảo vệ an
ninh tổ quốc… Như vậy những ai vi phạm các nghĩa vụ công dân vừa có tội với đất
nước, lại vừa lỗi giới răn Thiên Chúa, như Tông đồ Phao-lô đã dạy: “Mỗi người
phải phục tùng chính quyền, vì không có quyền bính nào mà không bởi Thiên Chúa,
và những quyền bính hiện hữu là do Thiên Chúa thiết lập” (Rm 13,1; x. Ga 19,11a).
- Phải vâng lời Thiên Chúa: Trừ phi thế quyền buộc các tín hữu chối bỏ đức tin, thì họ có
quyền áp dụng nguyên tắc do Tông đồ Phê-rô nói trước Thượng Hội Đồng Do Thái:
“Phải vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời người phàm” (Cv 5,29).
- Sống “Tốt đạo đẹp đời”: Người tín hữu công giáo cần luôn ý thức mình đang sống trong thế
gian nhưng không thuộc về trần gian như lời Chúa Giê-su đã cầu nguyện cho các
môn đệ trong đó có các tín hữu chúng ta hôm nay: “Con không còn ở trong thế
gian nữa, nhưng họ, họ ở trong thế gian”
(Ga 17,11); “Con không xin Cha cất họ khỏi thế gian, nhưng xin Cha gìn giữ họ
khỏi ác thần. Họ không thuộc về thế gian,
cũng như con đây không thuộc về thế gian” (Ga 17,15-16).
- Chu toàn hai bổn phận với
Chúa và với đất nước: Là công dân của Nước Trời, chúng ta cũng
được hưởng những quyền lợi thiêng liêng tinh thần là chu toàn bổn phận đối với
Thiên Chúa, như tôn trọng các công trình do Người sáng tạo, nhất là tôn trọng tha
nhân là tạo vật do Chúa dựng nên giống hình ảnh Người (x. St 1,26), và “bảo vệ sự sống”. Bên cạnh đó, chúng ta còn có bổn
phận phải giúp mọi người nhận biết Thiên Chúa là Đấng Tạo Hóa, và chu toàn bổn phận như con cái hiếu thảo của Thiên Chúa.
Ngoài ra chúng ta cũng phải tôn trọng và bảo về các tài nguyên môi trường do
Thiên Chúa sáng tạo như tránh phá rừng, xả khói vào không trung phá hủy tầng
Ô-dôn bảo về sự sống trên trái đất.
4. THẢO LUẬN:
1) Phân biệt quyền của nhà nước
với quyền của Hội Thánh khác và giống nhau thế nào ?
2) Khi thế quyền vi phạm quyền tự do tín ngưỡng thì bạn cần có thái độ nào ?
5. NGUYỆN CẦU:
1) LẠY THIÊN CHÚA LÀ CHA ĐẦY LÒNG NHÂN ÁI. Xin cho chúng con quyết tâm noi gương Đức Giê-su là “Con yêu dấu
luôn làm đẹp lòng Cha”. Xin cho chúng con có lòng bao dung nhân hậu để đón nhận
tha nhân là anh chị em của mình. Xin cho chúng con biết chia sẻ hạnh phúc được
làm con Cha cho những người chưa nhận biết và tôn thờ Cha. Xin cho chúng con
luôn biết khiêm hạ tôn trọng phục vụ tha nhân noi gương con Cha là Chúa Giê-su.
Xin cho chúng con dám yêu đến cùng và cho đi tất cả để xứng
đáng được Cha tha thứ lỗi lầm, và ban thưởng Nước Trời đời đời cho chúng con.
2) LẠY CHÚA GIÊ-SU: Trong Tin Mừng hôm nay, khi nói: “Của Xê-da trả
về Xê-da”, Chúa đã dạy chúng con phải biết yêu mến và xây dựng tổ quốc trần
gian bằng việc chu toàn các nghĩa vụ công dân. Nhưng Chúa
cũng nhắc chúng con phải ý thức chu tòan bổn phận đối
với Chúa Cha trên trời khi nói thêm: “Của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa”. Xin
cho chúng con luôn ý thức rằng: Dù đang sống giữa thế gian, nhưng chúng con
không thuộc về trần gian như lời Thánh Phao-lô: “Quê hương chúng ta ở trên
trời, và chúng ta nóng lòng mong đợi Đức Giê-su Ki-tô từ trời đến cứu chúng ta”
(Pl 3,20). Do đó, ngay từ bây giờ, Chúa muốn chúng con
phải biết chu toàn bổn phận mến Chúa yêu người theo
gương Chúa làm và lời Chúa dạy.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA
NHẬM LỜI CHÚNG CON.
LM ĐAN VINH -
HHTM