Phán xét cuỐi cùng
(Mátthêu 25,31-46 – CN XXXIV TN - A)
1.- Ngữ cảnh
Có
những người gọi đây là “dụ ngôn về cuộc phán xét thế gian”. Tuy
nhiên, nếu muốn đúng nghĩa dụ ngôn, chúng ta chỉ có cc. 32b-33, được coi như
một dụ ngôn ngắn. Phần lớn của bản văn được tạo nên
bởi hai mẩu “đối thoại phán xét” chính (cc. 34-40.41-45). Có thể gọi đây là một bức họa về phán xét. Đây không phải là
một bản văn khải huyền, vì không có thị kiến, cũng không phải là một bài huấn
giáo về phán xét, vì không có một lần nào bản văn ngỏ lời trực tiếp với các độc
giả.
Qua bản văn hôm nay, chúng
ta gặp được niềm hy vọng của Hội Thánh vào Đức Kitô quang vinh (“Chúa”
[Kyrios]: cc. 37.44; Đức Vua: cc. 34.40 // “mục tử”: c. 32). Hẳn là tác giả đã
lấy cảm hứng từ các bản văn ngôn sứ như Tv
2,7; 110,1-3; Đn
7,14. Tuy nhiên, ngoại trừ quang cảnh hùng vĩ đó, sứ điệp trọng tâm của bản văn
vẫn không khác sứ điệp của những bản văn đi trước: Người đầy tớ trung tín (24,45-51), Các trinh nữ (25,1-13), Ba người tôi tớ (25,14-30) trong
đó ta thấy cuộc gặp gỡ với ông chủ, cũng được gọi là kyrios, kết thúc với
phần thưởng hoặc hình phạt.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành bốn phần:
1) Quang cảnh Phán xét cuối cùng (25,31-33);
2) Xét xử những người bên phải (25,34-40);
3) Xét xử những người bên trái (25,41-45);
4) Kết luận (25,46).
3.- Vài điểm chú giải
- muôn dân (32): Theo S. Hre Kio (“Understanding and Translating
“Nations” in Mt 28,19”, dans The Bible Translator 41 (1990) 236),
trong số 16 lần từ ngữ ethnê được
dùng trong Mt, chỉ có ba lần liên hệ với cuộc phán xét thế gian (24,7;
24,14; 25,32), thì rất có thể từ ngữ phải được hiểu theo nghĩa tổng quát, không
giới hạn (= Do Thái + Dân ngoại); trong những trường hợp khác, từ này được hiểu là “Dân ngoại” (4,15; 5,47;
6,7; 6,32; 10,5; 10,18; 12,18; 12,21; 18,17; 20,19; 20,25; 21,43; 24,9).
- tập
hợp trước mặt Người (32): Cựu Ước cũng đã nói đến cuộc quy tụ hoành tráng các dân trên
thế giới lại để chịu Thiên Chúa phán xét (Ge
4,2; Is 66,18; Gr 25,31; v.v.). Ở đây chúng ta cũng gặp lại viễn tượng ấy: đây
không còn phải là cử chỉ từ bi thương xót của người mục tử cánh chung quy tụ
những người được chọn (Mk 4,6; Xp 3,19; Ed 34,12-13) hoặc quy tụ cả Do Thái lẫn
Dân ngoại vào một đoàn duy nhất (Gr
3,17), nhưng là hành vi uy quyền triệu tập loài người ra trước tòa Thiên Chúa.
- tách
biệt chiên với dê (32): Chính xác thì đây là chiên và dê con. Ban ngày chúng có thể
đi chung, nhưng về đêm người ta phải tách dê con ra để giữ cho chúng ấm. Vì
chiên thì có giá trị hơn dê con, ta hiểu tại sao chiên được đặt về bên phải vị
Thẩm phán cánh chung, vì chỗ bên phải là chỗ danh dự.
- Lạy Chúa, có bao giờ
chúng con đã thấy Chúa đói mà cho ăn (37): Không phải là những người lành quên, nhưng
họ không biết là khi giúp đỡ những người túng cực là họ đã làm cho chính Con
Người. Ý nghĩa tròn đầy của các hành vi của họ chỉ được
vén mở vào giờ cuối cùng. Điều này hoàn toàn phù hợp với nền luân lý của Mt
(“Cha của anh, Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả lại cho anh”, Mt 6,4).
- những anh em bé nhỏ
nhất
(40): Từ ngữ “bé nhỏ” (nêpios và mikros) được dùng nhiều lần trong
Mt để gọi những thành viên yếu hơn hoặc có nhu cầu hơn trong cộng đoàn
(11,25; 26,16: nêpios; 10,42; 13,32; 18,6;
26,39.73: mikros), còn từ elakistos, “bé nhỏ nhất” để gọi con
người thì chỉ xuất hiện trong bản văn ở đây mà thôi. Dường
như từ này không đồng nghĩa với hai từ trên, mà lại có nghĩa xã hội nhiều hơn.
4.- Ý nghĩa của bản văn
Bản văn của chúng ta là bản văn cuối cùng trước khi truyện
Thương Khó bắt đầu, đồng thời, là giáo huấn cuối cùng Đức Giêsu ban cho các môn
đệ.
* Quang cảnh Phán xét cuối cùng (31-33)
Bản văn mở ra với một
quang cảnh hùng vĩ: Con Người “đến trong vinh
quang”: Người vẫn là mục tử “tách biệt chiên với dê”, nhưng cũng là Đức Vua uy
phong chủ trì cuộc xét xử chung cuộc. Chúng ta mường tượng ra khung cảnh được nói
đến trong dụ ngôn Cỏ lùng (13,41-43), với cùng những
nhân vật (một bên: Con Người, các thiên thần, Chúa Cha, những người công chính,
những người làm việc tốt; bên kia: ma quỷ, các thiên thần của ma quỷ, những kẻ
xấu, những kẻ bị chúc dữ), nhưng được triển khai rộng ra. Đức Giêsu xuất hiện trong
vinh quang của Người, chung quanh có các thiên thần,
ngự trên một cái ngai vinh quang (c. 31). Tất cả những
yếu tố mô tả đây là biểu tượng của sự hiện diện và quyền lực của Thiên Chúa.
Vinh quang là sự hiển lộ rạng rỡ, chói ngời của Thiên Chúa.
Các thiên thần đứng trước nhan Người làm chứng về sự hiện
diện của Người. Cái ngai tượng trưng uy quyền của
Người, từ đó Người điều khiển cách chắc chắn.
* Xét xử những người bên phải và bên trái (34-45)
Đã có quyền lực và sự
uy hùng của Thiên Chúa, Đức Giêsu thực hiện việc xét xử. Lời tuyên án có tính vĩnh viễn, không thể hồi tố. Đức Giêsu đã đến như
“Con Người”, Đấng đã được Thiên Chúa trao cho quyền chúa tể, vương vị và vương
quyền (x. Đn 7,14).
Người tuyên án như “Đức Vua” đang thi hành quyền chúa tể vô song (25,34.40). Người hành động như là “Con Thiên Chúa” đang lên
tiếng nhân danh Chúa Cha (x. 25,34) và đứng về phía
những người túng quẫn, được coi như là anh em Người và con Thiên Chúa (c. 40). Người được mọi người có mặt nhận biết như là “Chúa tể” (cc. 37.44).
Trong cuộc xét xử, địa vị và uy quyền của Đức Giêsu cũng như
trọng lượng lời Người và hành động của Người được tỏ bày.
Mọi dân tộc, tất cả mọi người không ngoại
lệ, phải trả lẽ về mình trước nhan Người. Tức khắc có một chi
tiết khiến chúng ta ngạc nhiên: Đây không phải là những người
Khi đó, tất cả sẽ bị
xét xử, không phải tùy theo những công trạng đã đạt
hoặc những lỗi đã phạm đối với các khoản luật lệ nào, nhưng là những lỗi phạm
đến anh chị em đồng loại. Bản văn không nêu ra những việc như
là một cuộc trả thù chống lại các thẩm phán bất công và các bạo chúa đã
áp bức
Lời tuyên án được công bố vào cuối một cuộc đời hoặc
cuối một kinh nghiệm, nhưng án xử thì được thực hiện dọc theo dòng lịch sử. Có thể nói mỗi người xây dựng chính hạnh
phúc hay bất hạnh vĩnh cửu ngày qua ngày. Loài người sẽ bị
xét xử không phải về những gì đã nghĩ hoặc đã nói, nhưng về những gì đã làm cho
chính anh em mình. Không phải mọi người đều đã biết Đức Giêsu, nhưng mọi
người đều có một nẻo đường để gặp được Người, đó là nẻo đường “các việc
từ bi thương xót”; đó chính là các việc Người đã làm. Ta gặp lại giáo huấn của
Đức Giêsu: không phải là nói như Đức Kitô, nhưng là hành động như Người, mới
được chiếu cố. Khi săn sóc những người “nhỏ bé nhất”, những
người túng quẫn, những người đói khát, những khách lạ, những người trần truồng,
những người ngồi tù (cc. 35-36), ta vừa làm giống như Đức Kitô vừa săn sóc
chính Đức Kitô. Ta giúp đỡ Đấng một ngày kia
sẽ là thẩm phán.
Khi nhắc đến một vài
nhu cầu sơ đẳng, như thiếu thức ăn, thức uống, nơi ở, quần áo, và cả tình trạng
bệnh tật và tù đày, Đức Giêsu không muốn cung cấp một danh sách rốt ráo.
Người không yếu cầu điều không thể làm được, nhưng việc tặng ban và giúp đỡ vừa
sức chúng ta.
Những ai đã dấn thân làm việc tốt, Đức Giêsu gọi họ là
“những kẻ Cha Ta chúc phúc” và ban cho họ Vương quốc vĩnh cửu (c. 34). Thiên Chúa trong tư cách là Cha của Đức Giêsu đã chúc phúc cho họ.
* Kết luận (46)
Như một mặt trời, lòng tốt của Đức
Giêsu và tình yêu của Người rọi tới họ, làm cho họ tươi nở trong niềm vui và
hạnh phúc, và ban cho họ sự sống viên mãn (c. 46). Những gì họ đã trao tặng cho
người thân cận với sức yếu đuối nay nhận được đầy tràn do
Thiên Chúa ban: tình yêu, sự hiệp thông, sự sống và niềm vui.
Còn những người khác thì bị loại khỏi nhan
Thiên Chúa. Lửa tượng trưng sự dày vò và đau đớn giáng
xuống trên tất cả những ai bị loại không được nhận sự chúc phúc và sự sống của
Thiên Chúa. Họ không được sống trong sự nhân lành chói
chan của Chúa Cha và trong cộng đoàn những người có sự tốt lành này. Số phận của họ là cộng đoàn những kẻ ích kỷ và thất bại, là sự thù
ghét căm hờn.
+ Kết luận
Bài diễn từ đầu tiên của Đức Giêsu bắt đầu bằng phúc lành (5,3-12), bài cuối cùng kết thúc bằng cảnh phán xét cuối cùng.
Toàn thể giáo huấn của Đức Giêsu được gom lại giữa hai giáo
huấn quan trọng này, là những giáo huấn nói về những gì chúng ta có thể chờ đợi
từ nơi Thiên Chúa và những gì chính chúng ta phải làm. Trong bài nói về phán xét cuối cùng, Đức Giêsu nhấn mạnh đến việc
trao tặng nhưng-không, tỏ bày lòng từ bi thương xót và sự tốt lành cho người
anh em. Đấy là yếu tố chính, lãnh vực chuyên biệt để
chúng ta hành động. Tuy nhiên, cũng không được quên
những giáo huấn khác của Đức Giêsu. Nhận biết uy quyền của Người và
quyền lực của Chúa Cha làm cho chúng ta có khả năng và thúc đẩy chúng ta hành
động theo các tiêu chuẩn của Chúa Cha cũng là của Đức
Giêsu.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Tất cả những gì chúng
ta là và có đều là của cải được ký thác. Chúng ta không được phung phí theo
ngẫu hứng, nhưng phải sử dụng theo ý muốn của Thiên Chúa và nhằm phục vụ Ngài
(25,14-30). Bài Tin Mừng hôm nay cho biết ý muốn của
Thiên Chúa là gì và việc phục vụ được yêu cầu hệ tại điều gì: giúp cho một người
ở trong tình cảnh quẫn bách là giúp chính Đức Giêsu. Việc
giúp đỡ ấy khiến chúng ta được chấp nhận trong ngày phán xét để được đi vào
cuộc sống vĩnh cửu. Từ khước hoặc bỏ qua không giúp đỡ người khác sẽ
khiến chúng ta bị kết án vào ngày phán xét và đưa
chúng ta đến hình phạt đời đời.
2. Những người nghèo
khó túng cực tự họ không thể tự đồng hóa với Đức Giêsu, nhưng chính Người tự
đồng hóa với họ. Do đó, mỗi việc giúp đỡ dành cho những người nhỏ bé có một giá
trị bền vững. Đàng sau mỗi người, và nhất là đàng sau
mỗi người nhỏ bé, yếu đuối, bị thử thách, có Đức Giêsu đang hiện diện; trong
con người này, Đức Giêsu gặp chúng ta và xin chúng ta giúp đỡ. Do Đức Giêsu,
mỗi người nhận được một phẩm giá thường hằng, và hành động được thực
hiện vì Người sẽ nhận được một giá trị vô song và quyết định đối với số
phận của mình.
3. Đức Giêsu không nói:
Ta đã bị bệnh và các ngươi đã chữa ta lành, Ta đã bị tù và các ngươi đã giải
thoát Ta. Chữa lành bệnh tật và giải phóng thường vượt quá
khả năng chúng ta. Tuy
nhiên, để chia sẻ thì không cần nhiều của cải hoặc những tài năng
đặc biệt, nhưng cần một trái tim rộng mở và có lòng thương cảm. Bởi vì có rất nhiều nhu cầu khác nhau, về thể lý, tâm lý hoặc tinh
thần. Điều đầu tiên là phải có con mắt, trái tim
và sự nhạy cảm; nhất là phải nhận ra nhu cầu của người anh chị em.
4. Bài học của đoạn Tin
Mừng này đã rõ: Đến cuối đời, chúng ta sẽ bị phán xét về tình yêu. Những người
công chính là những người đã chu toàn Luật Thiên Chúa,
như chính Đức Giêsu đã diễn tả qua điều răn lớn nhất. Một lần
nữa, ở đây, Người lại đồng hóa tình yêu đối với tha nhân với tình yêu đối với
Thiên Chúa. Để những việc ta làm cho anh chị em được
gọi là “tốt”, ta hãy làm việc ấy cho chính Thiên Chúa.
5. Tác giả Mt tin rằng Hội Thánh Kitô giáo không có
một vị trí đặc biệt nào tại cuộc phán xét. Các Kitô hữu cũng bị xét xử bởi Con
Người, Đức Chúa của họ, chỉ dựa trên các hành vi yêu thương họ đã làm, y như
bất cứ người nào khác. Chính vì thế, họ chẳng có gì để tự
mãn.
Lm FX Vũ Phan Long, ofm