lỜi
loan báo cỦa Gioan tẨy giẢ
(Mátthêu 3,1-12 – CN
II MV - A)
1.- Ngữ cảnh
Phần Mở của Tin
Mừng Mt đi từ 1,1–4,16. Về
nội dung, trong bốn chương mở đầu này trước khi Đức Giêsu xuất hiện công khai,
có hai người khám phá ra Đức Giêsu là ai, theo hai đường song song và riêng tư:
Giuse (ch. 1–2) và Gioan Tẩy Giả (ch. 3–4). Giuse thì được thiên thần Chúa báo
tin trong giấc mơ rằng Đức Giêsu là con (cháu) vua Đavít, còn Gioan thì được
một tiếng từ trời cho biết Đức Giêsu là Con Thiên Chúa. Cả hai vị đều muốn tránh
né ơn gọi đặc biệt các vị được mời đảm nhận trong liên hệ với Đức Giêsu, vị đầu
sẽ đưa Đức Giêsu vào trong dòng dõi vua Đavít, vị sau sẽ trở thành khí cụ để
tấn phong làm Đấng Mêsia trong phép rửa. Trong cả hai trường hợp, cảm thức về
sự bất xứng của hai vị đã là động lực khiến các vị có thái độ như thế (chính
theo nghĩa này mà ta phải hiểu sự “bối rối” của Giuse). Nhưng sự băn khoăn bối
rối của các vị đã được thiên thần hoặc chính Đức Giêsu đánh tan. Cuối cùng,
cũng như Giuse, khi chấp nhận đưa Đức Giêsu vào trong dòng dõi vua Đavít, đã
kéo theo cuộc bách hại của vua Hêrôđê, Gioan Tẩy Giả, khi chấp nhận ban phép
rửa cho Đức Giêsu và tạo cho Người cơ hội được tấn phong làm Đấng Mêsia, đã kéo
theo những đợt tấn công của Satan.
Bản văn đọc trong Phụng vụ hôm nay là phân đoạn
đầu thuọc nửa hai của Phần Mở.
Phần hai của phần Mở dường như làm thành một bức tranh bộ đôi: ba đoạn liên
hệ đến Gioan, và ba đoạn liên hệ đến Đức Giêsu. Về Gioan: giới thiệu tổng quát
về bản thân và sứ vụ của ông (3,1-6); lời rao giảng sự sám hối (3,7-10); lời
rao giảng về Đấng Mêsia (3,11-12). Về Đức Giêsu: phép rửa (3,13-17); các cám dỗ
(4,1-11); các lời mào đầu về sứ vụ (kết thúc sứ vụ của Gioan, Đức Giêsu trở về
Galilê, Người cư ngụ ở Caphácnaum: 4,12-16).
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia
thành ba đơn vị:
1) Những chi tiết tổng
quát về bản thân và sứ vụ của Gioan (3,1-6);
2) Lời rao giảng sự sám
hối (3,7-10);
3) Lời rao giảng về
Đấng Mêsia (3,11-12).
3.- Vài điểm chú giải
- Hồi ấy, ông Gioan Tẩy Giả đến (1): Động từ paraginomai
có nghĩa là “đến, xuất hiện [trên sân khấu]”. Sau này, Đức Giêsu cũng được TM I giới thiệu như thế ở 3,13. Gioan
Tẩy Giả chính là người giới thiệu trước Đức Giêsu. Cả hai đều hoạt động tại
hoang địa, loan báo Nước Trời và sự hoán cải (3,2 // 4,17), và có làm một phép
rửa (c. 11a // c. 11c). Chỉ có điều Đức Giêsu “mạnh hơn” (c. 11), nên Gioan
không xứng đáng xách dép cho Người (c. 11), càng không xứng đáng làm phép rửa
cho Người (c. 14).
- hoang địa (1): Đây là một ghi chú địa lý
(thung lũng sông Giođan), nhưng hơn thế nữa, còn là một ghi chú thần
học. Trong truyền thống Kinh Thánh, “hoang địa” là nơi lý tưởng để gặp gỡ Thiên
Chúa (x. Hs 12,16-22; Gr 2,2-3; Ed 16,23; Đnl 8,2). Trong
hoang địa, Đức Chúa (Yhwh) đã nói
với Môsê (Xh 3), với
- Ông rao giảng (1): Động từ Hy Lạp kêryssô,
“làm người tiền hô; rao giảng; loan báo”. Đây là một động từ chuyên biệt
của Tân Ước (61 lần) để chỉ công việc công bố Tin Mừng. Các chủ từ của động từ
này luôn luôn là Gioan (3,1), Đức Giêsu (4,17) và các Tông Đồ (10,7). Đối tượng
của việc công bố này luôn luôn là Tin Mừng, Nước Thiên Chúa. Vì được vay mượn
từ Cựu Ước (38 lần, theo Bản LXX. Xem chẳng hạn Is 61,1tt), như thế động từ này nối kết Gioan Tẩy Giả vào truyền
thống các ngôn sứ, thiên sai và khải huyền.
- hối cải (2): Động từ metanoeô, “suy tưởng
sau”, “suy nghĩ tiếp đó”; “thay đổi ý kiến”; “hối tiếc”, “hối hận”, “hoán cải”
(động từ Híp-ri shub). Đây là việc chuyển đi từ tình trạng này sang một
tình trạng khác, tức là thay đổi trọn vẹn lối sống. Sự thay đổi này có một
phương diện tiêu cực (bỏ [apo, from] con đường tội lỗi: x. Cv 8,22; Dt 6,1) và một phương diện tiêu cực (quay về [eis, epi, to]
với Thiên Chúa: Cv 20,21; 26,20).
Trong TM Mt, danh từ metanoia
được dùng 2 lần (3,8.11) và động từ metanoeô được dùng 5 lần (3,2; 4,17;
11,20; 11,21; 12,41). Xin so sánh: metanoia: Mc một lần, Lc 5 lần, Ga 0 lần, Cv 6 lần, Phaolô 4 lần, Dt 3 lần, 2 Pr một lần; metanoeô: Mc
2 lần, Lc 9 lần, Ga 0 lần, Cv 5 lần, Phaolô một lần, Kh 12 lần. Tác giả chỉ áp dụng động từ metanoeô cho hoạt
động của Gioan Tẩy Giả (3,2) và Đức Giêsu (4,17) mà thôi, tức là chỉ liên kết
vị Tiền Hô và Đức Giêsu với nhau.
- Có tiếng người hô trong hoang địa: Hãy dọn
sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi (3): Câu này trích ở
đầu “Sách Yên Ủi” (Is 40–55). Bản văn
Híp-ri là: “Có tiếng người hô: Trong hoang địa, hãy dọn sẵn một con đường cho Yhwh (Đức Chúa); trong hoang giao, hãy
san bằng một lối đi cho Thiên Chúa chúng ta”. Bản LXX: “Có tiếng người hô trong
hoang địa: Hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, hãy sửa cho thẳng những nẻo
đường của Thiên Chúa chúng ta”. Các bản văn đều không xác định ai là “người
hô”; phải chăng một thiên thần? Các Tin
Mừng đã trích Bản LXX, và gán cho Gioan là “người hô”, và thay thế “Thiên
Chúa” bằng đại từ “Người” để áp dụng cho Đức Giêsu.
- mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da,
lấy châu chấu và mật ong rừng làm thức ăn (4): Trichas kamêlou, “lông lạc
đà”, không có nghĩa là “da” lạc đà; đây là cái áo dài và rộng dệt bằng lông lạc
đà. Zônê, “dây thắt lưng”, không phải là dây thắt lưng của người Tây
phương, nhưng là một thứ như cái “ruột tượng” của ta. “Châu chấu” là thức ăn
của các dân trong sa mạc (rang với muối hay phơi khô, ăn với dấm và mật ong
rừng hoặc làm nhân bánh đa). Kiểu mô tả Gioan khiến độc giả nhớ đến ngôn sứ
Êlia (x. 2 V 1,8); thật ra Mt
mặc nhiên nói rằng Gioan là ngôn sứ Êlia.
- nhiều người thuộc phái Pharisêu và phái Xađốc
đến chịu phép rửa (7): dịch sát là “đến với (giới từ epi + đối-cách[1]: “trên; về phía; nhằm mục
đích”) phép rửa”. Câu văn có phần hàm hồ: có thể hiểu là họ đến nhận phép rửa
hoặc đến nơi có ban phép rửa. Một đàng, chúng ta được biết là họ không tin vào
Gioan và không chấp nhận phép rửa của ông (x. Mt 21,32), nên có thể cho rằng họ đến là để điều tra về ông (x. Ga 1,19-28). Nhưng đàng khác, vì có lời
trách của Gioan: “Ai đã chỉ cho các anh cách trốn cơn thịnh nộ…”, nên rất có
thể họ đến nhận phép rửa thật sự, dù lòng họ không tin.
Phái Pharisêu (= những
người “tách biệt”) phát sinh vào thời dòng họ Macabê (x. 1 Mcb 2,42). Sử gia Gioxép cho biết vào lúc đó, họ có khoảng 6.000
thành viên (Ant. J., 18,42), trong đó có một vài tư tế, còn đa số
là giáo dân, được chiêu mộ trong số các kinh sư hoặc tiến sĩ Luật. Là những
người trung thành với Lề Luật và truyền thống truyền miệng nhận từ các tiền
nhân, họ đã trở thành những người linh hoạt đời sống thiêng liêng của dân Chúa
vào thời Đức Giêsu. Về mặt chính trị, họ bảo vệ quyền tự quyết của dân tộc Do
Thái và tỏ ra dè dặt trong các quan hệ với người Rôma.
Phái Xađốc, là hậu duệ
của thượng tế Xađốc (thời vua Salômôn: 1
V 2,35), chính là phái các tư tế, vì quy tụ các gia đình tư tế giàu có. Họ
chấp nhận các thói tục Hy Lạp và thích nghi với nền đô hộ Rô-ma. Về phương diện
tôn giáo, họ nhìn nhận Tôra, tức Bộ Ngũ Thư, loại bỏ truyền thống khẩu truyền, không tin vào sự sống lại, sự
hiện hữu của các thiên thần và sự quan phòng của Thiên Chúa.
- Nòi rắn độc (6): nghĩa là dòng dõi của Satan. St 3 đã coi con rắn là loài “rất tinh
khôn” (phronimôtatos). Nó là biểu tượng của sự “khôn khéo” (như rắn:
10,16), nhưng hơn nữa là biểu tượng của sự gian tà xấu xa, do nó cắn và giết
người ta bằng nọc độc (x. 12,34; 23,33). Sau này, con rắn được kết nối với
Satan (x. Kh 12,9). Lời mắng của
Gioan hoàn toàn ngược lại với niềm tự hào của người Pharisêu về bản thân họ
(“Chúng ta có tổ phụ [cha] là ông Ápraham”, c. 9; x. Ga 8,3).
- cơn thịnh nộ (7): “Cơn thịnh nộ [orgê]”
ở dạng tuyệt đối[2]
có nghĩa là cơn thịnh nộ của Thiên Chúa, được tỏ ra trong “Ngày của Đức Chúa”
(x. Is 13,6-9; Xp 2,2; Ml 3,2.23-24).
Các ngôn sứ khẳng định “cơn giận” này sẽ được giáng xuống trên những kẻ tội lỗi
(x. Am 3,2), nhưng Do Thái giáo thời
Tân Ước lại dạy rằng cơn giận này chỉ được giáng xuống trên Dân Ngoại, đặc biệt
trên những kẻ áp bức Israel: như thế là bắt đầu quan niệm về Đấng Mêsia chính
trị.
- những hòn đá này trở nên con cháu (9): Có lẽ ở đây có
một kiểu chơi chữ bằng tiếng A-ram: hai từ số phức abenyyâ’,
“những hòn đá” và benayyâ’, “những con cháu”, nghe gần giống nhau.
- gốc cây (10): Trong Cựu Ước, “cây” là hình ảnh
chỉ “dân chúng” (cây vân hương: Is
6,13; cây hương bá: Ed 31,10-13; một
cây [= đế quốc
- quăng vào lửa (10): Lửa thiêu đốt
tượng trưng hình phạt Thiên Chúa giáng xuống trên kẻ vô đạo (x. Am 1,4–2,5; Ed 22,18-22; Xp 1,18; Ml 3,2-19; Is 66,15-16).
- quyền thế (11): dịch sát là “mạnh hơn” (ischyroteros,
do danh từ ischys, “sức mạnh; quyền lực; quyền thế”).
- trong Thánh Thần và lửa (11): Trong Cựu Ước,
lửa đôi khi được dùng với ý nghĩa là một phương tiẹn để thanh luyện (Lv 13,52; Ds 31,23; Ml 3,2; Dcr 13,9), để biện phân hoặc tách biệt (Gr 23,29; Is 33,14), và để xét xử (St
19,24; Xh 9,24; Tv 66,12; Is 43,2). Vậy
có thể hiểu là Chúa Thánh Thần tẩy luyện như lửa (Khi đó, liên từ và có
vai trò giải thích). Nhưng ở c. 10 và đến c. 12, “lửa [không hề tắt]” lại là
“hình phạt, tức là “cơn thịnh nộ” của Thiên Chúa (x. c. 7). Vậy hợp lý là cho
rằng không lý gì mà tác giả thay đổi quá nhanh ý nghĩa của một từ như
thế từ c. 10 sang 11 rồi lại trở về nghĩa cũ ở c. 12 mà không báo trước gì cả,
nên “lửa” ở cc. 11-12 đều có nghĩa là “cơn thịnh nộ” con người gánh chịu khi
đối diện với sự thánh thiện của Thiên Chúa (Khi đó, liên từ và thêm vào
một sắc thái đặc biệt). Xem dụ ngôn “Cỏ lùng” (Mt 13,37-42).
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Giới thiệu tổng quát về bản thân và sứ vụ của
Gioan (1-6)
Các ghi chú của Mt
về Gioan không phải là một bản tiểu sử, nhưng là một bản văn mang
tính thần học và biện giáo. Các ghi chú này không nhắc đến hoàn cảnh gia đình
ông, cuộc chào đời, ơn gọi (như Lc
1–2), nhưng chỉ nêu ra những điểm liên hệ đến con người và hoạt động của ông,
nơi chốn, đề tài và nội dung lời ông rao giảng, các nghi thức kèm theo.
Gioan xuất hiện trong
hoang địa, nơi gặp gỡ với Thiên Chúa, nơi đã là sân khấu cho một thời kỳ
hồng ân, khi dân
Ông Gioan không nói cho
biết “Nước Trời” nghĩa là gì; nhưng chúng ta biết những nỗi niềm chờ mong của
dân chúng thời Đức Giêsu.
Dân chúng “từ Giêrusalem
và khắp miền Giuđê, cùng khắp vùng ven sông Giođan, kéo đến” với Gioan. Ghi chú
này có phóng đại nhưng không phải là không có phần đúng, bởi vì vào những thời
điểm có những căng thẳng trầm trọng về tôn giáo và chính trị, một ngôn
sứ thường thành công. Gioan làm một nghi thức diễn tả lòng thống hối kèm
theo lời rao giảng (c. 6). Cách làm của Gioan hoàn toàn phù hợp với bối cảnh
thời ông, khi mà người ta vẫn cử hành các nghi thức thanh tẩy được Lề Luật quy
định (x. Lv 14–15). Nhưng cách làm
của ông cũng có phần khác: phép rửa của ông được ban dưới dấu chỉ metanoia,
của sự hoán cải luân lý, tức là lấy lại điểm cốt yếu trong giáo huấn của Cựu
Ước, nhưng đặt vào viễn tượng của Nước Thiên Chúa đang đến gần. Không có chỗ
nào nói rằng nhờ nghi thức này, người ta được tha các tội, nhưng nghi thức này
đánh dấu việc thay đổi đã xảy đến hoặc sắp xảy đến nơi người nhận phép rửa.
* Lời rao giảng sự sám hối (7-10)
Lời rao giảng của Gioan
mà Mt ghi lại là những lời đe dọa hơn là một lời loan báo đầy
tính an ủi. Giọng điệu của bài là giọng châm biếm, nội dung thì mang tính khải
huyền. Thay vì nói đến ơn cứu độ gần kề, hay là giảng về phép rửa, Gioan cho
thấy “ngày của Đức Chúa” (ngày phán xét) đã gần bên, ngày chất chứa cơn thịnh
nộ đổ xuống dân Chúa (x. Am 5,18-20; Hs 6,1-3; 9,7-9; Mk 4,6-7).
Có những người thuộc
phái Pharisêu và Xađốc đã đến có lẽ để nhận phép rửa dù không tin, Gioan đã gọi
họ bằng một tên rất nặng: “nòi rắn độc”, họ là những đứa con thoái hóa
của tổ phụ Abraham (c. 9), những cây không sinh quả (c. 10). Không một ngôn
sứ nào trong Cựu Ước đã nói với cử tọa nặng lời như thế. Và Gioan khẳng định
rằng cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sẽ giáng xuống trên mọi kẻ tội lỗi, dù là Dân
Ngoại hay Do Thái; do đó, mọi người phải hoán cải và nhận phép rửa để được tái
tháp nhập vào dân Israel chân chính. Sau này tư tưởng này được hỗ trợ bằng các
hình ảnh “cái rìu”, “lửa” và “công việc sàng sảy lúa” (cc. 10.12). Đứng trước
cái khối người kiêu ngạo và phản loạn này, Gioan nói như thể để phản đối và
thách thức: “Ai đã chỉ cho các anh cách trốn cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sắp
giáng xuống?” Câu hỏi này là kiểu nói hùng biện nhằm nhấn mạnh rằng không thoát
được án phạt. Dù thế vị Tiền Hô cũng nói với họ một lời khích lệ. Để
tránh được “cơn thịnh nộ gần kề”, chỉ có một con đường duy nhất, con
đường hoán cải, được chứng thực không phải bằng lời nói suông, mà bằng những
công việc tốt lành (c. 8; x. 5,16). Người hoán cải là một cây mới đang
cho thấy có sự thay đổi tích cực (“quả”). Dân Do Thái tưởng rằng họ sẽ thoát
khỏi án phạt bởi vì họ là thành viên của dân Thiên Chúa tuyển chọn (“con cháu
tổ phụ Abraham”); chính sự yên tâm này đã đưa một số người đến chỗ sống
buông thả về luân lý và giải thích thái độ tự mãn tự phụ của người Pharisêu.
Gioan khẳng định rằng tư cách đó không bảo đảm gì cả và có là “con cháu” (benayyâ’)
hay là “các hòn đá” (abenyyâ’) thì cũng như nhau. Người Do Thái tưởng có
thể kết luận rằng vì Thiên Chúa đã hứa, thì Ngài cần có
* Lời rao giảng về Đấng Mêsia (11-12)
Bây giờ bản văn giới
thiệu dung mạo Đấng Mêsia. Ở đây nổi rõ những bận tâm Kitô học, nhưng cũng có
bận tâm biện giáo: tác giả giới thiệu Đức Giêsu nhưng cũng xác định khoảng cách
giữa Đức Kitô và vị Tiền Hô. Gioan đi trước Người, nhưng chỉ như người nô lệ đi
trước chủ mình, để dọn đường. Gioan làm phép rửa, nhưng chỉ là phép rửa trong
nước để thôi thúc đi tới hoán cải. Đấng Mêsia (“Đấng đang đến”: erchomenos)
thì “mạnh [quyền thế]” hơn (ischyroteros) và làm một phép rửa
“trong Thánh Thần và lửa”. “Quyền lực” (ischys) là một phẩm tính
của Thiên Chúa; nhưng đối với Is
(9,6), đây là một đặc điểm của Đấng Emmanuel, và đối với Mt, đây
là một đặc điểm của Đấng Mêsia (x. 12,29). Đứng trước Người, Gioan không
xứng đáng làm công việc của một người nô lệ thông thường là xách dép cho
chủ. Điểm này cho thấy vị Tẩy Giả hoàn toàn lệ thuộc vào Đấng Mêsia.
Đấng Mêsia được giới
thiệu như là Vị thẩm phán cánh chung: Người sẽ đến với sức mạnh của Thánh Thần
Thiên Chúa để loại trừ các kẻ bất chính và bất lương. Lịch sử
+ Kết luận
Như thế, bằng ba cách,
Gioan đã khẳng định sự trổi vượt của Đức Giêsu: 1) Người là Đấng mạnh hơn,
Người vượt xa Gioan bằng sức mạnh thực thụ. 2) Người có phẩm giá cao vời: ngay
đến việc xách dép cho Người, Gioan cũng không xứng đáng. 3) Người sẽ làm phép
rửa trong Thánh Thần, trong khi Gioan chỉ làm phép rửa trong nước.
Tuy nhiên, lời rao
giảng của Gioan Tẩy Giả còn giúp chúng ta ở nhiều điều khác nữa. Đây không chỉ
là một hồi niệm, nhưng còn là một lời khuyến cáo nghiêm khắc cho
mọi người mọi thời. Qua bút pháp của Mt, lời rao giảng của Gioan cũng
phản ánh cuộc bút chiến giữa các Kitô hữu tiên khởi với hội đường. Tuy nhiên, Mt
cũng muốn gửi đến cho giáo đoàn Kitô hữu một sứ điệp. Lời mời gọi “hãy
sinh hoa quả xứng với lòng hối cải” hẳn là nhắm đến các Kitô hữu hơn là đến
người Pharisêu. Các Kitô hữu có thể nhìn vào người Pharisêu như nhìn vào một
tấm gương để điều chỉnh đời sống mình.
Lời đe dọa bị kết án
cũng liên hệ đến các Kitô hữu nào chỉ bằng lòng với việc nhận bí tích thánh tẩy
mà không quan tâm sống phù hợp với những cam kết đã lấy. Vẫn còn đó ảo tưởng
cho rằng mình là môn đệ của Đức Giêsu, là thành viên thực thụ của Họi Thánh,
thì đã được bảo đảm hạnh phúc muôn đời.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Chúng ta được mời gọi tin vào sự trung tín
của Thiên Chúa: Ngài đã lên kế hoạch cứu độ, thì khi đến thời Ngài đã định,
Ngài sẽ ban gửi các vị loan báo Tin Mừng Cứu Độ đến. Sứ điệp Gioan loan báo
mang lại cả nỗi sợ hãi lẫn niềm vui, bởi vì ông nói cho dân chúng biết rằng họ
bị thất sủng, tương quan của họ với Thiên Chúa đã bị rối loạn, nhưng đồng thời
ông khẳng định rằng Thiên Chúa đầy lòng thương xót đối với họ và Ngài muốn
thắng vượt tình trạng thất sủng của họ.
2. Giống như các ngôn sứ tiền bối, Gioan tố
giác một nếp sống đạo giả hình, chỉ hoàn toàn ở bên ngoài (x. Am 5,21-27; Is 1,10-20; Gr 7,1–8,3…),
dần dần đưa tới một tình trạng cứng cỏi. Đức tin không phải là một di
sản quốc gia hay dòng tộc, nhưng là một dấn thân của trọn vẹn con người.
Trong cuộc dấn thân này, con người cứ phải liên tục rà soát lại bản thân để có
thể đáp trả trọn vẹn hơn những đòi hỏi của Thiên Chúa.
3. Người Kitô hữu cũng có một vai trò
tiền hô đối với anh chị em mình. Muốn thế, cần xác định rõ ràng quan hệ của
mình với “Đấng đang đến”, để khiêm tốn và trung thực giới thiệu về Người như là
Đấng đã đang có mặt trong lịch sử loài người.
4. Các lời Gioan trách giới lãnh đạo
Lm FX Vũ
Phan Long, ofm